Thứ Sáu, 30 tháng 11, 2012

Câu chuyện nhượng quyền thương hiệu

Bộ Tài chính đã có dự thảo thông tư về định giá thương hiệu đồng ý về nguyên tắc để DN dùng giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu đầu tư góp vốn, chính sách mới này hứa hẹn sẽ là sự ra đời của nhiều mô hình doanh nghiệp mới.

Doanh nghiệp Việt Nam có những thương hiệu lớn, Cà phê Trung Nguyên, Vinamilk, Viettel, Mobifone,... đều là những thương hiệu được định giá cao trong nước và trên thế giới. Điều quan trọng là cần cho họ một điểm tựa về cơ chế chính sách và kinh doanh theo nhiều hình thức mới, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.

Theo các nhà kinh tế học, thương hiệu của doanh nghiệp là một trong những tài sản có giá trị quan trọng bậc nhất. Một doanh nghiệp thành đạt là doanh nghiệp có quá trình hình thành và xây dựng thành công thương hiệu uy tín có chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng. Thương hiệu ảnh hưởng đến lựa chọn của người tiêu dùng, của nhân viên, nhà đầu tư và cả các cơ quan công quyền. Trong một thế giới có nhiều lựa chọn, sự ảnh hưởng này là tối quan trọng cho thành công thương mại và tạo ra giá trị cho cổ đông.

Nhiều quốc gia trên thế giới cũng công nhận và cho phép thương hiệu là một loại tài sản có thể đem ra góp vốn kinh doanh, quy đổi thành ngoại tệ để giao dịch. Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam vấn đề trên hiện chưa được quan tâm đúng mức, bởi thông thường các doanh nghiệp Việt Nam chưa định giá đúng và chính xác loại tài sản vô hình này, cũng như chưa có hệ thống sổ sách, giấy tờ minh bạch rõ ràng.

Ở khía cạnh văn bản luật, dự thảo thông tư trên của Bộ Tài chính nêu rõ các tập đoàn, tổng công ty, DN, tổ chức có giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu được nhận, góp vốn bằng quyền sử dụng nhãn hiệu. Các bên góp vốn tự thỏa thuận với nhau về các điều khoản, độc quyền sử dụng nhãn hiệu, quyền kinh doanh dịch vụ, hàng hóa tương ứng để sử dụng nhãn hiệu. Thời hạn góp vốn không vượt quá thời hạn bảo hộ mà pháp luật quy định đối với nhãn hiệu đó. Trong thời hạn góp vốn bằng quyền sử dụng nhãn hiệu, đơn vị có nhãn hiệu sẽ không được phép chuyển nhãn hiệu cho tổ chức, cá nhân khác.

Tuy nhiên, ở trong điều kiện thực tế, có nhiều điểm chính sách còn chưa theo kịp thực tiễn, theo ông Phạm Duy Khương, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Thuế, thương hiệu mặc dù là tài sản vô hình được tạo từ nội bộ doanh nghiệp nhưng thực tế ở nhiều nơi nhiều chỗ còn chưa được ghi nhận là tài sản vì nhiều lý do như thương hiệu không phải là nguồn lực có thể xác định được, không đánh giá được mức độ đáng tin cậy và doanh nghiệp không kiểm soát được.

Ngoài ra, trước đây Văn phòng Chính phủ cũng đã cho phép thí điểm thực hiện việc góp vốn bằng thương hiệu nhưng về sau lại không thấy văn bản pháp luật quy định cụ thể về vấn đề trên. Các chuyên gia về định giá thương hiệu thì cho rằng, Nhà nước nên quy định tiêu chuẩn, điều kiện, giới hạn nhất định của việc góp vốn bằng thương hiệu thông qua các văn bản pháp luật chỉ đạo thống nhất ở nhiều bộ ban ngành khác nhau. Vì trước khi dự thảo thông tư trên được thông qua, đã có một thời gian dài cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đã có nhiều cuộc hội thảo và kiến nghị đề xuất với Bộ Tài chính thông qua cách đầu tư kinh doanh mới này nhưng chưa được chấp thuận. Lần thông qua này, nếu muốn chính sách trên đi vào cuộc sống cần có sự phối hợp của nhiều ngành chức năng liên quan như: công thương, tài chính, ngân hàng, thuế, hải quan, ...

Ngoài ra, việc ban hành thông tư cũng cần có những điều khoản chi tiết cụ thể, tránh tình trạng sơ sài, sửa chữa gây khó khăn cho doanh nghiệp. Cụ thể, nhiều DN góp ý phải đưa vào thêm các quy định như cam kết về tiêu chuẩn, điều kiện sử dụng nhãn hiệu, logo, hình ảnh, kích thước, mẫu biểu trưng, biểu tượng của từng thương hiệu, hay giám sát chặt chẽ việc góp vốn và nhận góp vốn đối với các thương hiệu thuộc sở hữu nhà nước… Nhiều doanh nghiệp cũng có ý kiến cho rằng nếu quy định chung chung rất dễ dẫn đến tình trạng nhập nhèm. Điển hình như tình trạng của tập đoàn Vinashin hiện đang góp vốn bằng thương hiệu ở rất nhiều nơi nhưng không ghi trên giấy tờ mà chỉ thoả thuận miệng. Một kênh đầu tư khác đang nóng hiện nay là chứng khoán cũng chứng kiến nhiều cảnh thương hiệu ảo như trên, nghĩa là có rất nhiều công ty con lấy thương hiệu của công ty mẹ đưa cổ phiếu lên sàn niêm yết nhưng thực chất các thông tin doanh nghiệp rất khó được kiểm soát, bởi các công ty con luôn núp bóng dưới công ty mẹ, điều này khiến nhiều nhà đầu tư khó khăn khi tham gia giao dịch.

Thứ Năm, 29 tháng 11, 2012

Nhận Dạng Mối Quan Hệ Nhượng Quyền

Nhượng quyền thương mại là một hình thức kinh doanh tương đối mới mẻ ở Việt Nam. Hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại cũng mới được đưa vào nội dung của Luật Thương mại sửa đổi.

Trong thời gian sắp tới, các quy định này sẽ là cơ sở pháp lý chính thức tạo lập nên một sân chơi chung cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước khi tham gia vào hoạt động nhượng quyền thương mại.

Nhượng quyền thương mại khởi nguồn từ Mỹ và các nước phát triển cách đây 150 năm. Với những ưu điểm nổi trội, hình thức kinh doanh này đã phát triển một cách hết sức nhanh chóng. Tính đến nay, trên thế giới đã có tới hơn ngàn hệ thống nhượng quyền với hành triệu cơ sở kinh doanh đang hoạt động. Chỉ riêng ở Mỹ, hoạt động nhượng quyền đã chiếm tới 40% tổng mức bán lẻ, thu hút được hơn hàng triệu lao động và bình quân cứ 12 phút lại có 1 franchising mới ra đời. Tuy vậy, dù nói thế nào thì nhượng quyền thương mại vẫn còn là một hình thức kinh doanh hết sức mới mẻ ở Việt Nam.

Hơn thế nữa, duy trì một mối quan hệ tích cực và phát triển giữa doanh nghiệp được nhượng quyền và nhà nhượng quyền là yếu tố quyết định đến sự thành công của việc nhượng quyền thương hiệu.

Giai đoạn đầu tiên của quá trình này là chìa khóa then chốt cho cả hai bên trong việc xây dựng mối quan hệ nhượng quyền. Điều này liên quan đến việc xin được giấy phép từ nhà nhượng quyền thương hiệu, điều cho phép doanh nghiệp được nhượng quyền, kinh doanh dưới nhãn hiệu hoặc tên tuổi thương mại của họ. Những doanh nghiệp được nhượng quyền cũng được huấn luyện lúc ban đầu và được hỗ trợ trong suốt giai đoạn khởi đầu công việc kinh doanh.

Sức hút chủ yếu của một hệ thống nhượng quyền đối với nhà đầu tư đó là một mô hình kinh doanh đã được kiểm chứng, thông qua nhiều năm hoạt động trên thị trường.

Bất cứ ai sắp tham gia vào một hệ thống nhượng quyền nên hiểu rằng hệ thống hoạt động của nhà nhượng quyền đã được chứng minh trước đó và đã đạt được thành công là rất quan trọng, khả năng thành công sẽ được tối đa hóa khi hệ thống đó được tuân thủ.

Những doanh nghiệp được nhượng quyền sẽ có xu hướng kinh doanh trái ngược với những nhà kinh. Những doanh nghiệp được nhượng quyền chuyển năng lượng của họ vào kế hoạch chứ không phải tái phát minh ra một cái mới."

Từ viễn cảnh của những nhà nhượng quyền thương hiệu, sự thiết lập, xây dựng các biện pháp kiểm soát, điều khiển hệ thống là rất quan trọng để đảm bảo chất lượng của dịch vụ hoặc sản phẩm mà họ đưa ra trên toàn mạng lưới của mình. Điều này cho phép họ bảo vệ thương hiệu và theo đó, làm lợi cho những doanh nghiệp được nhượng quyền trong mạng lưới đó.

Bản chất của mối quan hệ nhượng quyền chính là những yếu tố nhận dạng "thế nào là nhượng quyền thương mại"

Công việc đào tạo nhượng quyền thương hiệu đi xa hơn ý nghĩa của việc "làm kinh doanh như thế nào" bao quát sự cải tiến của quá trình đào tạo phát triển để có thể được nhìn nhận như việc "làm thế nào để kinh doanh tốt hơn."

Nhượng quyền thương hiệu thì sự hỗ trợ là yếu tố chính trong quyết định của ông khi đầu tư vào một doanh nghiệp nhượng quyền.

Sau khi xem xét nhiều sự lựa chọn, một điều rõ ràng là trở thành một doanh nghiệp được nhượng quyền thương hiệu là một quyết định đúng đắn. Bởi vì tất cả những hệ thống hỗ trợ đã theo tôn ti trật tự, người sở hữu những doanh nghiệp này nên thực hiện hết sức mình.

Sự nhận thức rõ bản chất mối quan hệ giữa nhà nhượng quyền thương hiệu và doanh nghiệp được nhượng quyền là điều rất quan trọng đối với cả hai bên để họ tập trung vào xây dựng mối quan hệ này, và tập trung vào công việc của mình hơn là đi tìm hiểu nhượng quyền là gì.

Một điều quan trọng cũng nên nhớ đó là đối với một vài cá nhân, nhượng quyền thương hiệu có thể không phải là một cách thích hợp cho việc kinh doanh.

Bằng cách khám phá chiều sâu bản chất thực sự của mối quan hệ nhượng quyền thương hiệu, những người nghĩ đúng về nhượng quyền thương hiệu sẽ có thể nhận ra lợi ích trọn vẹn mà hệ thống đó mang lại.

Thứ Tư, 28 tháng 11, 2012

M&A - Giải pháp cùng phát triển

Cụm từ Mergers and Acquisition (M&A) - mua bán và sáp nhập xem ra vẫn còn khá mới mẻ. Tuy nhiên sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, để tồn tại và phát triển, nhiều doanh nghiệp (DN) Việt Nam đã chọn hình thức này.

Cụm từ Mergers and Acquisition (M&A) - mua bán và sáp nhập xem ra vẫn còn khá mới mẻ. Tuy nhiên sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, để tồn tại và phát triển, nhiều doanh nghiệp (DN) Việt Nam đã chọn hình thức này.

Theo thạc sĩ Đỗ Thanh Năm, Giám đốc Công ty Tư vấn và hỗ trợ chiến lược WIN–WIN, M&A chia làm 3 loại: Loại thứ nhất là mua đứt, bán đoạn. Có nghĩa là sau khi ký hợp đồng lợi ích bên này không liên quan gì đến bên kia, công ty này có thể sở hữu toàn bộ công ty kia (như trường hợp Kinh Đô mua đứt thương hiệu cũng như nhà máy và dây chuyền sản xuất của kem Wall's). Hoặc trường hợp công ty này có thể mua một thương hiệu của công ty kia như việc Unilever mua lại thương hiệu kem đánh răng P/S của Công ty Phương Đông.

Loại thứ 2, bên A sẽ sở hữu một lượng cổ phần đáng kể của bên B để trở thành cổ đông chiến lược của bên B. Theo đó bên mua không chỉ sở hữu về tài chính mà còn hỗ trợ nhất định về việc phát triển của bên bán như trường hợp Công ty cổ phần Đồng Tâm mua 60% cổ phần của sứ Thiên Thanh.

Loại thứ 3, trao đổi với nhau về cổ phiếu để đôi bên cùng có lợi, đây là một sự trao đổi mang tính hợp lực, hợp sức (theo kiểu 1+1>2). Đây là hướng đi chuyên nghiệp trong việc hoạch định chiến lược của từng công ty mà chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy được thông qua việc Công ty cổ phần Kinh Đô miền Bắc (NKC) và Công ty cổ phần KIDO cùng sáp nhập vào KDC (Công ty cổ phần Kinh Đô).

Hoạt động M&A sôi động nhất hiện nay là trong lĩnh vực ngân hàng. Vì theo quy định tại Nghị định 141/2006/NĐ-CP, đến cuối năm 2010, các tổ chức tín dụng phải có vốn điều lệ đạt mức 3.000 tỷ đồng. Theo đó, đến cuối tháng 6-2010, tất cả các tổ chức tín dụng phải trình Ngân hàng Nhà nước hồ sơ đề nghị tăng vốn, nếu không sẽ không được mở rộng mạng lưới, công ty, sở giao dịch, chi nhánh, phòng giao dịch…

Trước sức ép đó, nhiều ngân hàng nhỏ hiện nay đang tìm mọi cách như phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu, kêu gọi đầu tư thậm chí M&A để đạt được số vốn tối thiểu theo quy định mới.

Tuy nhiên, không phải dễ khi chọn giải pháp M&A trong thời điểm này, vì hiện nay kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đều gặp nhiều khó khăn. Sau khủng hoảng, nợ công ở các quốc gia vẫn còn nhiều, việc bán cổ phần hoặc tìm các đối tác là các tổ chức nước ngoài không dễ dàng. Tuy nhiên không phải vì thế mà M&A kém phần sôi động.

Từ năm 2009 đến nay vẫn có nhiều thương vụ sáp nhập và mua bán thành công diễn ra giữa các DN và ngân hàng cũng như giữa ngân hàng nước ngoài và ngân hàng trong nước như Petro Vietnam & Oceanbank, Tín Nghĩa và Đại Á, BNP Paribas và Phương Đông, Maybank và An Bình.

Trong đó, Maybank (ngân hàng hàng đầu của Malaysia) đã ký hợp đồng mua 15% cổ phần của Ngân hàng An Bình (Việt Nam) với giá 2.200 tỷ đồng (tương tương 50.000 đồng/cổ phiếu). Trong hợp đồng M&A này, theo nhận định của các chuyên gia, Maybank và An Bình đều có lợi để cùng tồn tại và phát triển.

Sau cuộc sáp nhập với Petro Vietnam, từ một ngân hàng nhỏ, hiện Ngân hàng TMCP Đại Dương (OceanBank) đang có tiềm lực mạnh khi cổ đông chiến lược là Petro Vietnam. để tồn tại và phát triển, Ngân hàng Phương Đông (OCB) cũng chọn phương án M&A bằng cách bán 10% cổ phần cho Ngân hàng BNP Paribas (Pháp) giá khoảng 120 tỷ đồng, với mong muốn sẽ nâng cao khả năng tài chính, đồng thời tạo cơ hội để cung cấp và bán chéo các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng; tiếp nhận và học hỏi kinh nghiệm, kỹ thuật và đào tạo nguồn nhân lực từ BNP Paribas.

Được và mất từ M&A

Mua bán sáp nhập là giải pháp tất yếu của các ngân hàng nhỏ không hội đủ vốn pháp định.

M&A giữa các DN là sự lựa chọn tất yếu để cả bên mua và bên bán tồn tại và phát triển, nhất là trong thời điểm hậu khủng hoảng. Theo các chuyên gia tài chính, mục tiêu và bản chất của M&A là "Một cộng một bằng 3", điều mà các nhà kinh tế thường gọi là tính cộng hưởng.

Có thể thấy, sau khi sáp nhập bộ máy quản lý sẽ tinh gọn, giảm chi phí và tăng vị thế trên thương trường. Nhất là trong lĩnh vực ngân hàng, nhiều thương vụ sáp nhập, giá cổ phiếu và uy tín của cả 2 bên đều tăng lên một cách rõ rệt.

Không những thế, trong nhiều trường hợp, quy mô về vốn và năng lực sản xuất kinh doanh của DN cũng mạnh lên. Về năng lực cạnh tranh, sau khi sáp nhập cả bên bán và bên mua cũng cao hơn, thị phần lớn hơn và vận hành có hiệu quả hơn (như trường hợp giữa Kinh Đô và Nutifood).

Tuy nhiên trong một số hình thức M&A, hình thức bên mua muốn "nuốt" trọn thương hiệu cũng như hoạt động của bên bán thì thiệt hại thường nghiêng về bên bán.

Trong trường hợp này, thường bên mua muốn loại bỏ một đối thủ khỏi sân chơi như trường hợp Unilever mua lại thương hiệu kem đánh răng P/S của Công ty Phương Đông, với giá 5 triệu USD cho một thương hiệu cách đây hơn 10 năm, xem ra Phương Đông đã quá lời. Nhưng qua thời gian, không chỉ người đại diện của Phương Đông, ngay cả nhiều người tiêu dùng Việt Nam cũng tỏ ra tiếc nuối thương hiệu P/S.

Ở Việt Nam , hoạt động M&A có thể nói còn khá mới mẻ dù mỗi năm vẫn có hàng chục vụ và theo dự báo, từ nay đến cuối năm sẽ còn có nhiều vụ sáp nhập mới nữa. Tuy nhiên để hoạt động này góp phần tạo ra một kênh thu hút FDI, đồng thời giúp các DN tái cấu trúc bộ máy, tập trung tích tụ công nghệ và vốn nhanh rất cần tăng cường các giải pháp quản lý của nhà nước.

Kinh doanh nhượng quyền sẽ tăng 35%

Doanh thu của ngành kinh doanh nhượng quyền thương mại tại Việt Nam sẽ tiếp tục tăng mạnh trong các năm tới và dự báo sẽ đạt hơn 36 triệu đô la Mỹ (khoảng 642 tỉ đồng) vào năm 2010.

Doanh thu của ngành kinh doanh nhượng quyền thương mại tại Việt Nam sẽ tiếp tục tăng mạnh trong các năm tới và dự báo sẽ đạt hơn 36 triệu đô la Mỹ (khoảng 642 tỉ đồng) vào năm 2010.

Thông tin trên do Hiệp hội kinh doanh nhượng quyền Việt Nam và Trung tâm kinh doanh Hàn Quốc đưa ra tại ngày khai mạc Triển lãm quốc tế ngành công nghiệp cửa hàng và Triển lãm quốc tế nhượng quyền kinh doanh (VISIS và VIFS) tại Trung tâm Hội nghị và triển lãm Sài Gòn (SECC) hôm 10-9.

Hai tổ chức trên cho biết, năm 1996 doanh thu của kinh doanh nhượng quyền tại Việt Nam chỉ tăng 15%, đạt 1,5 triệu đô la Mỹ; 5 năm sau đã tăng 21% đạt hơn 3 triệu đô la Mỹ, và đến năm 2005 đã tăng 26%, đạt 9 triệu đô la Mỹ.

Theo dự báo của các chuyên gia, tốc độ tăng trưởng của ngành kinh doanh nhượng quyền sẽ tiếp tục được duy trì và đạt doanh thu dự kiến là 36,68 triệu đô la Mỹ, với mức tăng trưởng 35% vào năm tới.

Ông Byung Gwan Bae, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Công ty tổ chức hội nghị triển lãm Coex (Hàn Quốc) – phối hợp cùng với Công ty cổ phần Quảng cáo và Hội chợ thương mại Vinexad tổ chức hai triển lãm trên, cho rằng người tiêu dùng trẻ và năng động là một trong các yếu tố thúc đẩy ngành bán lẻ và nhượng quyền thương mại tại Việt Nam tăng mạnh.

Một chuyên gia trong lĩnh vực nhượng quyền là ông Lý Quí Trung, Tổng giám đốc Công ty Phở 24, giải thích với Thời báo Kinh tế Sài Gon Online rằng ngành kinh doanh này còn mới mẻ tại Việt Nam nên có thể dễ dàng đạt tốc độ tăng trưởng từ 25-30%/năm trong các năm sắp tới.

Theo thông tin của ban tổ chức, tính đến tháng 6-2008, Việt Nam có khoảng 890 cửa hàng hoạt động theo hình thức kinh doanh nhượng quyền thương mại, trong khi con số của năm 2007 chỉ là 700. Dự kiến, số lượng cửa hàng nhượng quyền năm 2010 sẽ tăng 50% so với năm 2008.

Lần đầu tiên được tổ chức tại khu vực Đông Nam Á, hai triển lãm VISIS và VIFS thu hút hơn 130 doanh nghiệp đến từ các nước Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản và Việt Nam tham gia trưng bày các sản phẩm và dịch vụ liên quan tại 250 gian hàng. Ban tổ chức hy vọng hai triển lãm sẽ thu hút khoảng 20.000 khách tham quan, trong đó có hơn 2.000 khách đăng ký trực tuyến từ các nước như Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Singapore, Anh và Mỹ.

Theo chương trình, bên cạnh  triển lãm còn có các buổi hội thảo với chủ đề "Tác động của việc quản trị thông tin khách hàng lên chiến lược tiếp thị", "Bí quyết thành công tại thị trường Việt Nam" và "Thông tin cần biết cho hoạt động kinh doanh tại Việt Nam" sẽ diễn ra vào ngày 11-9.

Thứ Ba, 27 tháng 11, 2012

Đánh giá sản phẩm nhượng quyền

Ngoài thị trường, cạnh tranh ngày càng khốc liệt và lập nghiệp ngày càng gian truân, nên có rất nhiều cơ hội, nhưng cũng không ít hiểm họa.

Kỹ năng cần thiết nhất khi mua nhượng quyền là biết cách đánh giá mức độ thành công của sản phẩm và cần tránh xa những sản phẩm nhượng quyền nào.

Thành công cũng có bí quyết, mà thất bại cũng để lại kinh nghiệm. Nắm rõ lý thuyết cơ bản để thực hành trôi chảy và đỡ tốn thời gian. Bài viết này liệt kê 5 cách đơn giản để kiểm tra độ nguy hiểm của một sản phẩm nhượng quyền.

1. Đếm số lượng sản phẩm. Đây là cách đơn giản nhất. Tìm xem sản phẩm nhượng quyền bạn sắp mua có mặt trên thị trường đang diễn biến thế nào? Đang đứng yên, tiến triển, tăng hay giảm? Nếu số lượng sản phẩm nhượng quyền giảm, dù bất cứ lý do nào, thì cũng là đèn đỏ cảnh báo nguy hiểm đừng nên "rớ" vào. Đừng dại đi mua về thứ người khác đang thải ra.

2. Kinh nghiệm kiện tụng, tranh chấp. Kiểm tra xem trong vài năm trở lại đây, có kiện tụng gì giữa bên bán và bên mua sản phẩm nhượng quyền. Kiện tụng thường xảy ra khi bên mua không thành công như mong đợi nên trút giận lên bên bán. Nếu có những vụ kiện lớn, hoặc nhiều vụ kiện liên tục, thì dù bất cứ lý do nào, đừng đụng đến sản phẩm nhượng quyền này.

3. Tình trạng tài chính của bên bán sản phẩm nhượng quyền. Công ty bán nhượng quyền có nghĩa vụ công khai những số liệu tài chính của mình trong ba năm gần nhất. Có hai điều bạn cần lưu ý khi xem báo cáo tài chính đó.

Một, tình trạng tài chính có ổn định và đủ để sống sót cho chặn đua dài trước mắt? Tìm chỉ số cho thấy doanh nghiệp đang làm ăn phát đạt, có lãi, lưu thông tiền tích cực, vốn dự trữ mạnh.

Hai, kiểm tra khoản thu của doanh nghiệp bán nhượng quyền vì hầu hết khoản thu của họ đến từ các doanh nghiệp mua nhượng quyền. Bảo đảm né xa trường hợp bên mua chật vật nên khó thanh toán cho bên bán.

4. Tình hình bán hàng của các tiệm mua nhượng quyền. Trong hệ thống nhượng quyền thì cả bên bán và bên mua đều tìm cách để tăng sức tiêu thụ của khách hàng, tăng đầu ra.

Nếu cả hai phía đều nỗ lực rồi mà đầu ra không tăng nhiều, thì có thể suy ra là doanh nghiệp phản ứng kém trước những biến động thị trường, hoặc chiến lược kinh doanh chưa đủ chuẩn. Chỉ với tiêu chí này mà loại doanh nghiệp nào đó ra khỏi danh sách đối tác mua sản phẩm nhượng quyền thì quá thẳng tay. Vậy nên, hãy tìm hiểu kỹ trước khi giao dịch.

5. Gọi điện đến những tiệm mua nhượng quyền. Cách tốt nhất để điều tra hoạt động nhượng quyền là gọi điện đột xuất hoặc ghé thăm những đơn vị mua sản phẩm nhượng quyền.

Bạn có thể hỏi thẳng người mua nhượng quyền cảm nhận về doanh nghiệp, tình hình kinh doanh vài năm trở lại đây. Nếu cho trở lại quyết định lần nữa thì họ có mua sản phẩm nhượng quyền này không?

Hãy tin vào trực giác và thông tin mình thu thập được.

Thứ Hai, 26 tháng 11, 2012

Nhượng quyền thương mại ở Việt Nam tăng mạnh

Hiệp hội Nhượng quyền thương mại Malayssia (MFA) đánh giá, thị trường nhượng quyền thương mại ở Việt Nam đang tăng nhanh chóng với mức doanh thu trung bình tăng 50%/năm và xu hướng này dự kiến sẽ tiếp tục cho đến năm 2012.

Hiệp hội Nhượng quyền thương mại Malayssia (MFA) đánh giá, thị trường nhượng quyền thương mại ở Việt Nam đang tăng nhanh chóng với mức doanh thu trung bình tăng 50%/năm và xu hướng này dự kiến sẽ tiếp tục cho đến năm 2012.

MFA xác định Việt Nam là một thị trường chiến lược mới để các công ty Malaysia có thể đầu tư trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại.

Giám đốc điều hành MFA, Sofia Leong Abdullah ngày 6/10 cho biết, MFA sẽ làm việc với Cơ quan Phát triển Ngoại thương Malaysia (Matrade) và Công ty Phát triển nhượng quyền thương mại Malaysia (Perbadanan Nasional Bhd - PNS) để quảng bá thị trường đầu tư tiềm năng này đến các doanh nhân Malaysia.

Theo ông Sofia, lĩnh vực nhượng quyền thương mại đang có nhu cầu cao ở Việt Nam là bán lẻ (25%), đồ uống (20%), nhà hàng (16%), thời trang (9%) và giáo dục (5%).

Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau:

Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;

Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh

Chủ Nhật, 25 tháng 11, 2012

Mười lý do không nên mua lại một franchise

Mua lại một doanh nghiệp khác với hình thức nhượng quyền sử dụng thương hiệu (franchise) là một trong những cách nhanh nhất để khởi nghiệp. Xu hướng này đang ngày càng trở nên phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, nếu vướng phải những điều sau đây thì nên cân nhắc việc trở thành một franchisee (người được nhượng quyền).

Mua lại một doanh nghiệp khác với hình thức nhượng quyền sử dụng thương hiệu (franchise) là một trong những cách nhanh nhất để khởi nghiệp. Xu hướng này đang ngày càng trở nên phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, nếu vướng phải những điều sau đây thì nên cân nhắc việc trở thành một franchisee (người được nhượng quyền).

Không biết chắc khả năng sinh lợi

Đa số các doanh nghiệp chuyển nhượng quyền sử dụng nhãn hiệu (franchiser) thường không cung cấp đầy đủ thông tin cho các franchisee về khả năng sinh lợi của doanh nghiệp mà các franchisee mua lại. Điều này làm cho các franchisee không đánh giá được hiệu quả của việc đầu tư. Ngay cả khi các franchisee cung cấp thông tin về khả năng sinh lời của doanh nghiệp thì họ cũng chỉ cung cấp các số liệu không mấy hữu ích cho việc đánh giá hiệu quả thật sự của việc đầu tư.

Chi phí ban đầu quá cao

Trước khi mở ra một doanh nghiệp franchise, các franchisee thường trả một loại phí nhượng quyền ban đầu và nó không được hoàn lại. Ngoài loại phí này, có thể các franchisee còn phải mất nhiều loại phí khác để vận hành doanh nghiệp mới thành lập như mua sắm các máy móc, thiết bị, hàng trữ sẵn trong kho. Những chi phí đó có thể lên rất cao và doanh nghiệp franchise có khi phải mất mấy năm mới khấu hao hết.

Có quá nhiều franchisee khác ở gần địa bàn doanh nghiệp

Việc này thường rất xảy ra khi các franchiser bán lại quyền sử dụng nhãn hiệu của mình cho quá nhiều doanh nghiệp trong cùng một thị trường hẹp, chẳng hạn trên một con phố ngắn có quá nhiều tiệm McDonald's.

Quyền lợi của doanh nghiệp franchisee theo pháp luật không được bảo vệ

Khi ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng nhãn hiệu, các franchiser thường loại bỏ các quyền lợi mà lẽ ra các franchisee phải được hưởng theo luật pháp hiện hành của địa phương.

Bị hạn chế sự tự do

Khi mua lại một franchise, doanh nghiệp không chỉ mua lại quyền sử dụng tên, nhãn hiệu của franchise đó mà còn mua cả phương án kinh doanh. Kết quả là các franchiser thường áp đặt giá cả, cách bài trí, thiết kế lên các franchisee, làm hạn chế sự tự do của các franchisee trong việc vận hành doanh nghiệp. Tất nhiên những quy định này nhằm tạo ra bộ mặt nhất quán cho doanh nghiệp franchise, nhưng nó có thể kiềm hãm sự phát triển của những doanh nhân năng động, có khả năng vận hành doanh nghiệp franchise hiệu quả hơn nếu họ được làm theo cách riêng của mình.

Tiền sử dụng nhãn hiệu (royalty) quá cao

Các franchisee thường phải trả tiền sử dụng hàng tháng cho franchiser dựa trên một tỷ lệ phần trăm của doanh số bán. Số tiền này nếu quá cao sẽ làm giảm lợi nhuận của các franchisee.

Bị lệ thuộc vào các nguồn cung cấp

Trong nhiều trường hợp, các franchiser thường chỉ định các franchisee phải mua hàng hóa hay sử dụng dịch vụ của một số nhà cung cấp nào đó. Lý do mà họ đưa ra là nhằm đảm bảo chất lượng đồng nhất. Doanh nghiệp franchisee sẽ bị thiệt thòi nếu các nhà cung cấp vì lý do nào đó tăng giá bán quá cao.

Bị các hạn chế về cạnh tranh sau khi chấm dứt hợp đồng

Sau một số năm làm franchisee, các doanh nhân franchisee cảm thấy rằng họ có thể tự mở ra một doanh nghiệp tương tự và làm việc hiệu quả hơn (chất lượng cao hơn, giá cả thấp hơn), nhưng họ thường không được phép làm điều này vì đã bị khống chế trong các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng nhãn hiệu. Khi mua lại một franchise, các doanh nhân có thể tình tự hạn chế các cơ hội kinh doanh của mình trong nhiều năm sau khi kết thúc hợp đồng sử dụng nhãn hiệu.

Chi phí quảng cáo quá nhiều

Nhiều franchisee buộc phải đóng góp thường xuyên vào ngân quỹ quảng cáo cho các franchiser, trong khi các franchiser được toàn quyền quyết định việc quản lý, sử dụng ngân quỹ này.

Điều kiện chấm dứt hợp đồng không công bằng

Khi franchisee có những vi phạm tuy nhỏ như đóng tiền royalty không đúng hạn hay vi phạm các trình tự, quy tắc hoạt động theo các chuẩn mực mà các franchiser đưa ra, các franchiser có thể chấm dứt ngay hợp đồng, làm cho doanh nhân là franchisee bị mất trắng khỏan tiền đầu tư của mình.

Thứ Bảy, 24 tháng 11, 2012

Kinh doanh ẩm thực, mốt của nhượng quyền

Trong khi Phở 24 hiện nay cũng như cà phê Trung Nguyên trước kia "ra với thế giới" bằng phương thức nhượng quyền kinh doanh, hàng trăm "nhà bếp" ngoại với những thương hiệu nổi tiếng đã, đang tìm đường nhảy vào chia sẻ "miếng bánh" tiêu dùng trẻ 86 triệu dân của Việt Nam.

Trong khi Phở 24 hiện nay cũng như cà phê Trung Nguyên trước kia "ra với thế giới" bằng phương thức nhượng quyền kinh doanh, hàng trăm "nhà bếp" ngoại với những thương hiệu nổi tiếng đã, đang tìm đường nhảy vào chia sẻ "miếng bánh" tiêu dùng trẻ 86 triệu dân của Việt Nam.

"Quyền lực" của nhượng quyền

Đã xa rồi cái thời phải dằn ví cả tháng để được thưởng thức ăn "cơm tây, cơm tàu". Ngày nay với số tiền không quá lớn, tương đương một bữa trưa công sở, thực khách có thể chọn gu ẩm thực kiểu Ý, kiểu Mỹ thậm chí kiểu Thái theo phong cách "nhanh- tiện- giá hợp lý".

Đó là "quyền lực" mà mô hình kinh doanh nhượng quyền trong ẩm thực đem lại.

Các cửa hàng bán thức ăn theo chuỗi này thường tạm chia làm hai loại: fastfood đúng nghĩa như KFC, BBQ, Lotterie, Pizza Hut, Jollibee, Goloria Jeans Coffees.... hoặc là chuỗi "nhà hàng công sở" với các phần ăn phục vụ nhanh chóng giản tiện nhưng không quá công nghiệp mà Bún ta, Phở 24 của Việt Nam hay ThaiExpress (số 7 Đinh Tiên Hoàng) là điển hình.

Ngoại trừ Bún Ta và Phở 24, điểm chung của các chuỗi "nhà bếp" ngoại này là đều "đổ bộ" vào Việt Nam theo phương thức nhượng quyền kinh doanh. Mô hình này không mới ở Việt Nam với sự có mặt cách đây gần chục năm KFC nhưng năm 2009 được nhiều chuyên gia dự báo sẽ là thời điểm bùng nổ.

Anh Lê Vũ Minh, Phó Giám đốc, Công ty RedSun ITI, doanh nghiệp vừa mua quyền kinh doanh của chuỗi nhà hàng ẩm thực Thái –ThaiExpress hồi tháng 3 lý giải, sở dĩ năm 2009 bỗng nhiên...hấp dẫn vì thị trường bán lẻ đã mở rộng cửa sau ngày 1/1 với những điều kiện kinh doanh dễ dàng hơn cho loại hình này.

Mặt khác, theo anh, người tiêu dùng Việt nhất là giới trẻ ngày nay có xu hướng ưa chuộng những chuỗi nhà hàng hiện đại, tiện dụng nhưng vẫn phải dễ chịu cả về không gian lẫn giá cả.

"Họ không chỉ ăn uống mà còn muốn tận hưởng cảm giác thoái mái của không khí quán xá, cách phục vụ... đó là lý do chuỗi ThaiExpress luôn duy trì tông cam tươi mát và decor nội thất trẻ trung", anh Minh cho biết.

Ở góc nhìn khác, trong một bài trả lời phỏng vẩn mới đây, ông Lý Quí Trung lại phân tích chính suy thoái kinh tế toàn cầu đã thúc đẩy nhiều thương hiệu quốc tế, trong đấy có ẩm thực phải mở đường sang các thị trường mới nổi như Việt Nam.

"Theo tôi, khoảng 2-3 năm nữa, hoạt động này tại VN sẽ sôi động hơn, với sự tham gia của nhiều thương hiệu bán lẻ nổi tiếng quốc tế như Seven-Eleven, Mc Donald, các chuỗi siêu thị...", ông Trung dự đoán.

Thực tế, đến thời điểm hiện nay, tại Việt Nam đã có khoảng 100 thương hiệu quốc tế hoạt động thông qua phương thức nhượng quyền, phần lớn tập trung vào lĩnh vực ẩm thực. Sự sôi động của thị trường nhượng quyền được các chuyên gia dự báo, có thể không dưới 30%/năm.

Từ những "đại gia" đã "cắm rễ" thâm niên như KFC, Lotterie hay mới vài năm như Goloria Jeans Coffees, Lee's Sandwiches, Jollibee, BBQ, Pizza Hut… đều chọn năm 2009 để đua nhau mở chuỗi. Cụ thế, Lotteria công bố tăng từ 56 lên 80 cửa hàng, KFC cũng tăng tổng số cửa hàng lên khoảng 80...

Đó là chưa tính đến các thương hiệu ẩm thực theo trường phái phương đông của Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc...đang âm thầm nhưng bén rễ nhanh chóng trên thị trường. Vừa đến Việt Nam tháng 3 vừa qua nhưng chuỗi nhà hàng Thái_ThaiExpress cũng đã có kế hoạch mở khoảng 15 cửa hàng nhượng quyền tiếp theo tại Việt Nam.

"Ngoài ThaiExpress do chúng tôi mang về từ Singapore, theo tôi biết, nhiều thương hiệu nổi tiếng khác cũng đang đàm phán để thị trường Việt Nam như Stabuck chẳng hạn... ", anh Minh cho biết.

Tại sao chọn nhượng quyền?

Thống kê của Hội Liên hiệp chuyển giao thương hiệu quốc tế (IFA) cho biết có đến 90% Cty mua nhượng quyền kinh doanh tồn tại tốt sau mười năm hoạt động, trong khi chỉ có trên 10% công ty tự thành lập theo cách thông thường phải đóng cửa.

Điều đó đủ hiểu vì sao nhượng quyền được nhiều doanh nghiệp lựa chọn.

Anh Lê Vũ Minh thẳng thắn "Nếu tự mình mở 1 nhãn hiệu nào đó thì khả năng thành công rất thấp, có khi chỉ 10% thôi nhưng nếu chọn nhượng quyền thì khả năng thành công có thể đảm bảo đến 80%".

Lý do nhượng quyền có thể đảm bảo tỷ lệ thành công lớn đơn giản vì người mua quyền kinh doanh có thể tránh được các chi phí rủi ro ban đầu, chi phí đầu tư thương hiệu mà lại rút ngắn được thời gian khởi nghiệp.

Đặc biệt nhờ là hệ thống nhượng quyền rộng khắp nên chỉ cần cầm được quyền kinh

Kinh doanh ẩm thực đang là mốt của nhượng quyền

Kinh doanh ẩm thực đang là mốt của nhượng quyền yên tâm đã có sẵn một lượng khách quen của thương hiệu này từ trước.

"Khi quyết định chọn kinh doanh ẩm thực chúng tôi đã đi tìm hiểu các mô hình nhà hàng theo chuỗi và nhận thấy có rất nhiều trường phái ẩm thực khác nhau: Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản, phương Tây... Cuối cùng, chúng tôi chọn ThaiExpress vì đây là mô hình khá hiệu quả, mới chỉ 5 năm mà đã có 80 chi nhánh ở 9 nước. Món Thái lại dễ hợp khẩu vị nhiều người, đặc biệt quen thuộc với du khách nước ngoài nên nhà hàng ThaiExpress tại Hà Nội quá nửa là đón khách quen" , anh Minh cho biết.

Bên bán cũng có lợi rất lớn, không chỉ thu được tiền nhượng quyền mà khi bên mua hoạt động thành công thương hiệu của bên bán cũng sẽ được quảng bá rộng rãi hơn, "có giá" hơn cho các thương vụ sau.

Với những doanh nghiệp không có đủ khả năng, tiềm lực tài chính mà muốn mở rộng chuỗi phân phối trên phạm vi rộng thì đây là một giải pháp hữu hiệu để "chắp cánh thương hiệu".

Chính các ngân hàng cũng nhận thấy sự hấp dẫn và an toàn của hình thức kinh doanh này, do đó gần đây nhiều ngân hàng rất quan tâm đến những dự án kinh doanh ẩm thực nhượng quyền. Có thể thấy với những cơ hội thuận lợi ít ngành nào có được trong thời điểm hiện nay, việc ẩm thực ngoại nhượng quyền thành mốt tại đô thị là rất gần.

Thứ Sáu, 23 tháng 11, 2012

Lựa chọn chương trình frachisee

Tham gia vào kinh doanh như một frachisee có thể là thú vị và đáng làm, tuy nhiên không phải tất cả franchisor đều cũng cấp cho bạn những dịch vụ như nhau và không phải mọi frachisor sẽ mang đến cho bạn cùng một mức doanh thu và tỉ lệ lợi nhuận trên vốn đầu tư của bạn.

Tham gia vào kinh doanh như một frachisee có thể là thú vị và đáng làm, tuy nhiên không phải tất cả franchisor đều cũng cấp cho bạn những dịch vụ như nhau và không phải mọi frachisor sẽ mang đến cho bạn cùng một mức doanh thu và tỉ lệ lợi nhuận trên vốn đầu tư của bạn.

Hãy nghiên cứu cẩn thận và tự mình lựa chọn.Một trong những ngạc nhiên đầu tiên cho các franchisee tương lai đó là số lượng và sự đa dạng của franchises đang được chào bán.

Thêm vào đó nghành kinh doanh dịch vụ thức ăn nhanh có thể cung cấp đến các franchisee tương lai những dạng franchises có thể trông thấy được chứ không hoàn toàn là các tài sản vô hình, hơn 85 lãnh vực sử dụng nhượng quyền như một phương pháp mở rộng với hàng triệu công ty trong các nghành này. Một vài công ty yêu cầu đầu tư lên đến trên 1 triệu USD, trong khi một vài công ty khác chỉ yêu cầu một khoản đầu tư, không nhiều hơn giới hạn trên thẻ tín dụng của bạn.

Vài công ty muốn tìm một địa điểm tách biệt và xây dựng nhà dùng cho việc kinh doanh của bạn. Thông thường bạn sẽ tìm thấy những cơ hội kinh doanh nhưng không phải ở vị trí tiên phong, với một vài cơ hội khác bạn có thể bắt đầu với một chiếc bàn và một chiếc máy tính trong tầng hầm nhà bạn.

Đâu là điểm bắt đầu khi bạn lựa chọn một franchise và lựa chọn đó là đúng đắn? Bằng cách xác định đâu không phải là điểm bắt đầu. Hãy tránh xa các tổ chức môi giới nhượng quyền. Trên thực tế họ làm hạn chế các cơ hội của bạn và tạo ra một cảm giác bạn phải nhanh chóng đưa ra quyết định của mình.

Dịch vụ của tất cả nhà môi giới nhượng  quyền cho các franchisee tương lai đều miễn phí. Lý do để họ có thể cung cấp dịch vụ miễn phí là những khoản phí đó sẽ được trả bởi các franchisor thuê họ bán franchises.. Những khoản phí họ có được từ franchisor thường được tính dựa trên một tỷ lệ của khoản phí ban đầu mà bạn sẽ trả cho franchisor và, trong một vài trường hợp, cũng bao gồm cả một phần của khoản phí bản quyền mà bạn phải trả trong tương lai.

Công việc của một tổ chức môi giới là bán franchise, với chỉ một tỉ lệ nhỏ các franchisors là khách hàng của họ, họ có thể giới hạn sự lựa chọn của bạn trong vòng các khách hàng của họ. Có những tổ chức môi giới giỏi và thành thạo, nhưng mục đích chính của họ là giúp đỡ bạn trong việc mua franchise từ các khách hàng của họ và kiếm được các khoản phí, quy trình sẽ bị rút ngắn bởi bạn bị thúc bách trong việc mua franchise trước khi bạn có thể kiểm tra một cách toàn diện tất cả các cơ hội mua franchise mà bạn có thể lựa chọn. Làm việc bằng đôi chân của bạn – sẽ mất thời gian, nhưng không khó khăn. Khi bạn cần lời khuyên của một chuyên gia, hãy thuê một luật sư nhượng quyền, người có hiểu biết về kế toán, nhà tư vấn hoặc những nhà tư vấn có kinh nghiệm khác những người sẽ làm việc cho bạn.

Tìm các thông tin về các công ty bán franchise là khá dễ dàng, nhiều tổ chức kinh doanh và các ấn phẩm người tiêu dùng đang viết nhiều câu chuyện về  các công ty nhượng quyền, như Entrepreneur, offer e-commerce versions. Entrepreneur's Franchise 500 bao gồm một danh sách các hệ thống nhượng quyền cũng như sự đánh giá của các tạp chí về các hệ thống nhượng quyền và các thông tin khác. Những ấn phẩm chuyên ngành, có thể tìm được tại các cửa hàng sách, hoặc miễn phí trên internet với những thông tin về frachisor. Sách của phòng thương mại cung cấp các thông tin về nhượng quyền.

Tất cả các hệ thống nhượng quyền đều có website riêng, rất phong phú về thông tin, và nhiều giới thiệu, trưng bày mang tính thương mại. Và, nếu bạn đang tìm kiếm một franchise, mua nó và và điều hành nó, bạn có thể ghé thăm Business Resale Network tại  www.br-network.com. Hội đồng thương mại và các tổ chức khác sẽ mô tả để các franchisee và franchisor có các thông tin có giá trị, và những thông tin tốt nhất có thể đến từ một franchisee, bạn sẽ đến đó như một khách hàng. Họ sẽ cho bạn biết công việc kinh doanh có tốt như sản phẩm hoặc dịch vụ của họ, và đâu là thông tin có giá trị. Thậm chí bạn có thể làm tất cả những nghiên cứu của bạn lúc 1 giờ sáng nếu bạn muốn. Thông tin là rất nhiều, có thể tìm thấy dễ dàng, và dễ dàng sử dụng.

Nếu bạn muốn thấy một số lượng lớn các franchsor tại một thời điểm, kiếm các tài liệu về công ty sản phẩm và dịch vụ của họ, kiểm tra bản giới thiệu gốc hoặc những giới thiệu mang tính thương mại. The International Franchise Association tiếp nhận nhiều giới thiệu nhất mỗi năm nó là một Trade Show lớn, the International Franchise Exposition (IFE). Liên hệ với họ để có các thông tin tại www.frachise.org , IFE cũng cung cấp các chương trình giáo dụng được giảng dạy bởi các chuyên gia lão luyện trong nhượng quyền.

Một vài Trade Show khác nhỏ hơn ở các thành phố khác nhau giới thiệu các franchise nổi bật. Bạn sẽ thấy những đoạn quảng cáo trên báo địa phương, truyền hình và radio. Một vài Trade Show này cũng cung cấp các thông tin về các cơ hội kinh doanh.  Sự hỗ trợ bạn có được từ một cơ hội kinh doanh không giống như sự hỗ trợ bạn có được từ một hệ thống nhượng quyền, hãy chắc rằng bạn hiểu sự khác biệt giữa chúng.

Tham gia vào kinh doanh như một frachisee có thể là thú vị và đáng làm, tuy nhiên không phải tất cả franchisor đều cũng cấp cho bạn những dịch vụ như nhau và không phải mọi frachisor sẽ mang đến cho bạn cùng một mức doanh thu và tỉ lệ lợi nhuận trên vốn đầu tư của bạn. Hãy nghiên cứu cẩn thận và tự mình lựa chọn.

Thứ Năm, 22 tháng 11, 2012

10 lỗi hay gặp của người nhận quyền tương lai

Để đảm bảo thành công của mình, các bạn nên tránh càng nhiều lỗi càng tốt. Dưới đây là mười lỗi phổ biến nhất mà những người nhận quyền tương lai thường phạm phải trong quá trình đeo đuổi việc mua lại một thương hiệu nhượng quyền.

Để đảm bảo thành công của mình, các bạn nên tránh càng nhiều lỗi càng tốt. Dưới đây là mười lỗi phổ biến nhất mà những người nhận quyền tương lai thường phạm phải trong quá trình đeo đuổi việc mua lại một thương hiệu nhượng quyền.

1. Không đọc, không hiểu hay không hỏi bất kỳ một câu hỏi nào về tài liệu nhượng quyền.

Những tài liệu này thường rất dài, đôi khi tới 8 trang giấy nhưng việc đọc và hiểu từng phần là rất quan trọng, từ điều 1 đến điều 23 của Bản cung cấp thông tin nhượng quyền (UFOC). Khi bạn đọc tài liệu này, hãy ghi chú lại những phần còn bối rối hoặc chưa rõ. Trước khi bạn muốn xin ý kiến của luật sư, hãy cho người nhượng quyền biết về những mối nghi ngờ của bạn và trước tiên là phải nhờ người đại diện của thương hiệu giải thích cho bạn hiểu rồi hẵng kiểm tra những mối quan tâm còn lại cùng với luật sư. Phải kiểm tra luôn ngày tháng năm của tài liệu. Nếu nó là tài liệu hiện tại, bạn nên yêu cầu xem thêm những tài liệu cũ để so sánh.

Một trong những vấn đề chung giữa người nhận quyền mới và người nhượng quyền là sự hiểu lầm về khoản trách nhiệm. So với những điều khoản khác thì trách nhiệm có thể gây ra những vấn đề trong việc sắp xếp lịch cho ngày khai trương. Hãy đọc kĩ tài liệu và hợp đồng nhượng quyền cẩn thận đối với phần trách nhiệm. Đồng thời hãy chú ý đến những nghĩa vụ bắt buộc của người nhượng quyền, đặc biệt là điều thứ 11 trong UFOC. Đừng cho rằng người nhượng quyền chịu trách nhiệm cho những chi tiết trong phần dịch vụ hỗ trợ. Nếu nó không rõ ràng, hãy viết nó ra giấy. Liệt kê tất cả những thắc mắc của bạn và làm rõ xem những bổn phận, nghĩa vụ và trách nhiệm thuộc về bên nào.

2. Không hiểu, thiếu chính xác hay không truyền đạt trọn vẹn hợp đồng nhượng quyền và những tài liệu hợp pháp khác khi ký kết.

Bạn và luật sư của bạn nên xem lại một cách cẩn thận bản hợp đồng nhượng quyền, các hợp đồng thuê mướn hay bất động sản và những hợp đồng khác. Đầu tiên hãy lập ra một danh sách các câu hỏi để thảo luận với luật sư, sau đó nói lên những mối quan tâm của bạn với người nhượng quyền. Phải có được sự giải thích rõ ràng từ phía người nhượng quyền. Rất hiếm khi bạn có thể thay đổi được những hợp đồng đạt tiêu chuẩn này nhưng những điều khoản vẫn có thể được thêm vào. Không có lý do gì mà người nhượng quyền không cung cấp cho bạn tài liệu bổ sung để làm rõ một điều gì đó trong bản hợp đồng mà khiến bạn cùng luật sư của bạn lúng túng.

3. Không tìm kiếm lời khuyên về pháp lý.

Bạn hãy tìm kiếm và thuê một luật sư, tốt nhất là một người có kinh nghiệm về nhượng quyền thương hiệu.

4. Không xác minh những bài thuyết trình của người nhượng quyền

Bạn có thể tránh được lỗi này nếu bạn có những đề phòng đúng đắn. Có thể bạn sẽ muốn thu băng lại tất cả những cuộc họp với người nhượng quyền của mình. Nếu bạn được phép làm vậy thì điều đó thường được chấp nhận ở các phiên tòa khi có nhu cầu phát sinh. Việc làm đó cũng giúp cho người đại diện công ty biết rằng bạn đang làm theo lời họ. Bạn có thể thực hiện điều này một cách lịch sự, nhưng nếu bạn thích, bạn có thể ghi chú vắn tắt tất cả những cuộc họp của mình. Sau đó, hãy xem lại và tóm tắt những chi tiết trong buổi thảo luận, ghi lại bất kì điều khoản nào cần được làm rõ. Hãy gửi một lá thư đăng kí cho người nhượng quyền và một bản sao cho người đại diện để kiến nghị những điều bạn đã ghi chú cùng lời yêu cầu làm rõ những phần bạn cần. Đừng bỏ qua bất kỳ điều gì chưa được giải quyết.

Sự siêng năng cũng bao gồm cả sự minh bạch. Nếu có bất kì cuộc nói chuyện nào mà bạn thấy chưa rõ, hãy cố gắng xác minh những điều đó với những người nhận quyền trước hay hiện tại cũng như nói chuyện riêng với người nhận quyền. Như đã nói ở hai mục trên, bạn hãy đảm bảo những gì được nói ra phải được ghi lại để đối chiếu với những văn bản và tài liệu mở khác.

5. Chưa liên lạc hết với những người nhận quyền hiện tại

Khu vực thông tin mở về những người nhận quyền quá khứ, hiện tại và tương lai là một điểm khởi đầu có giá trị để xác định người nhận quyền. Thảo luận về những vấn đề bạn quan tâm với người nhận quyền hiện tại là điều bắt buộc. Nếu người nhượng quyền cùng bạn đi gặp hai hay ba người nhận quyền thì bạn nên gặp riêng họ sau để tránh hỏi bất kì câu hỏi nào có thể gây đụng chạm hay bối rối cho họ trước mặt người nhượng quyền. Một yếu tố quan trọng khác nữa là phải tìm hiểu xem người nhượng quyền đã giới thiệu bạn với những người nhận quyền được đền đáp vì sự giúp đỡ của họ trong việc thu hút những người nhận quyền mới hay chưa. Hãy trực tiếp hỏi họ, sau đó bám sát vào những câu trả lời của họ. Thật đáng ngạc nhiên khi một câu trả lời không chính xác có thể thay đổi như thế nào khi nó được viết ra.

Cùng với việc tìm hiểu những người nhận quyền do người nhượng quyền giới thiệu với bạn để có được một bức tranh xác thực, bạn có thể khảo sát những người khác được liệt kê trong tài liệu mở, là những người không giỏi trong việc thu hút người nhận quyền tương lai. Hãy tìm hiểu từ họ xem người nhượng quyền có một tiếng tăm nào về sự trung thực và làm ăn ngay thẳng hay không. Đó là một yếu tố hết sức quan trọng trong việc liên lạc với những người nhận quyền hiện tại để xác minh kinh nghiệm về độ chính xác của họ trong các tài liệu mở trước đây. Đồng thời hãy hỏi ý kiến của họ về độ chính xác và tính hoàn hảo của tài liệu hiện tại. Hơn nữa, bạn có thể nhờ họ giúp đỡ trong việc xác minh tất cả thông tin không có trong tài liệu mở.

Trong khi phỏng vấn những người nhận quyền khác, bạn hãy cố gắng tiếp xúc với một phạm vị người nhận quyền rộng lớn. Tìm kiếm câu trả lời từ những điều sau đây:

  • Các khu vực có khác nhau không?
  • Có một thương hiệu hay nhiều thương hiệu?
  • Có làm ăn lâu dài không?
  • Vẫn còn mới chứ?
  • Có thành công không?
  • Vẫn đang hoạt động tốt chứ?

Sau này, hãy cố gắng xác định những lý do. Đặc biệt là hãy hỏi những người nhận quyền rằng họ cảm thấy người nhượng quyền đã kiểm soát quá nhiều hay là kiển soát chưa đủ. Người nhượng quyền có luôn sẵn sàng giúp đỡ không? Họ có đưa ra mục đích của trách nhiệm hỗ trợ và đào tạo hay không?

Những thông tin từ phía người nhận quyền về năm đầu tiên hoạt động kinh doanh và kinh nghiệm của họ với người nhượng quyền có thể đang dần sáng tỏ. Theo như quy định của FTC, bản thông tin nhượng quyền phải đưa ra danh sách những người nhận quyền hiện tại, nhưng tài liệu này không cần phải trọn vẹn. Nếu bạn thấy danh sách bạn nhận được chưa đây đủ, hãy yêu cầu ngượi nhượng quyền đưa cho bạn một sổ đăng kí đầy đủ hơn.

6. Không xác định những lý do khiến việc nhượng quyền thương hiệu bị thất bại

Xác định một vài cửa hàng nhượng quyền gần được bán, đã bán hay sang tên cho một công ty khác và tìm hiểu nguyên nhân tại sao nó lại lâm vào tình trạng đó. Liên lạc với người chủ đầu tiên và nghe lời giải thích từ họ. Nếu lý do họ đưa ra không giống nhau, bạn không cần phải lưu tâm lắm. Nhưng nếu tất cả đều có cùng một nguyên nhân thì đó lại là điều mà bạn cần phải tránh. Tuy nhiên để cho công bằng, bạn hãy nghe lời giải thích của người nhượng quyền.

7. Không có đủ vốn kinh doanh

Phải đảm bảo rằng bạn có đủ vốn để đắp cho mọi chi phí dính đến kinh doanh trong đó có cả chi phí tiền khai trương, đủ tiền dự trữ cho ngân sách của gia đình, và đủ tiền hoạt động cho công ty khi qua thời điểm hòa vốn.

8. Không nhận ra được nhu cầu tài chính, không biết làm thế nào để xin vay tiền, và không gây dựng được một lời cam kết về tài chính trung thực và chính xác.

Nếu sổ sách kế toán của công ty không phải là điểm mạnh của bạn, bạn nên nhờ vào sự giúp đỡ của một nhân viên kế toán giỏi.

9. Không gặp nhân viên quản lý của bên nhượng quyền tại văn phòng chính và người đại diện quản lý khu vực của bạn.

Thường thì những đại diện bán hàng sẽ làm như vậy khi xây dựng lòng tin của bạn để bạn khỏi mất công gặp một nhân viên quan trọng khác hay đi đến văn phòng chính trước khi ký vào hợp đồng nhượng quyền. Đừng phạm sai lầm này. Hãy gặp nhân viên của bên nhượng quyền và xác minh những thông tin do người đại diện bán hàng cung cấp cho bạn.

10. Không phân tích thị trường của bạn trước.

Trong khi bên nhượng quyền có thể giúp đỡ bạn chọn lựa địa điểm, bạn vẫn phải có trách nhiệm quyết định xem một địa điểm đặc biệt nào đó có sức hút và triển vọng hay không. Quan trọng là phải xác định được thị trường dành cho sản phẩm hay dịch vụ của bạn tại một khu vực.

Nếu ở đó có đối thủ cạnh tranh, bạn nên cân nhắc một vài điều. Liệu các đối thủ đó có điểm yếu nào mà bạn có thể tránh trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình nhằm chiếm lĩnh được nhiều thị trường hơn không? Các đối thủ đó có quá mạnh đến nỗi thị trường bão hòa của họ sẽ gây khó khăn khi bạn cố lọt vào hay không? Nếu một đối thủ địa phương đang thao túng thị trường, thì việc xâm nhập vào thị trường đó sẽ thành ra một cuộc cạnh tranh khiến bạn phải tăng các yêu cầu về vốn hoạt động của mình.

Đồng thời hãy đánh giá chiến lược tiếp thị của bên nhượng quyền, tìm ra một số chiêu thức quảng cáo và quỹ khuyến thị có thể được hỗ trợ. Mặc dù việc làm đó là có ích nhưng chỉ dựa hoàn toàn vào người nhượng quyền khi nghiên cứu thị trường là một ý tưởng không tốt. Thuận lợi của bạn là phải tự phân tích thị trường của mình và tự mình triển khai kế hoạch tiếp thị.

Nếu những tìm kiếm của bạn hỗ trợ cho một thị trường mạnh trong một khu vực "chưa ai đụng đến", hợp đồng của bạn sẽ có một quy định về quyền ưu tiên mua thêm các cửa hàng được nhượng quyền trong khu vực trước khi người nhượng quyền xem xét nhượng cho những người nhận quyền tương lai khác. Nếu bạn cân nhắc việc này, bạn sẽ chịu một giới hạn thời gian để phát triển theo mục tiêu của bên nhượng quyền. Nếu bạn không thể hoàn thành mục tiêu mở rộng đã định, bạn sẽ bị mất quyền mua thêm cửa hàng trong khu vực. Còn nếu như bạn đang tìm kiếm một khu vực được nhượng quyền do một người nhượng quyền cấp dưới quản lý, bạn nên tìm hiểu người này với tính quyết đoán và bền bỉ tương tự như khi bạn đánh giá người nhượng quyền – mà thậm chí còn phải hơn thế nữa.

Thứ Tư, 21 tháng 11, 2012

Gia nhập làn sóng nhượng quyền thương hiệu

Sau khi gia nhập WTO, cơ chế kinh tế của nước ta thông thoáng hơn, tạo điều kiện cho các công ty, tập đoàn kinh tế của nước ngoài "tấn công" vào thị trường Việt Nam.

Sau khi gia nhập WTO, cơ chế kinh tế của nước ta thông thoáng hơn, tạo điều kiện cho các công ty, tập đoàn kinh tế của nước ngoài "tấn công" vào thị trường Việt Nam.

Đây là bước tiến thể hiện sự hội nhập của kinh tế, nhưng đồng thời cũng có nghĩa là các doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh khốc liệt hơn để tồn tại và phát triển.

Thị trường sôi động hơn nhờ nhượng quyền thương hiệu

Bằng con đường nhượng quyền thương hiệu (NQTH), nhiều tên tuổi lớn thuộc nhiều lĩnh vực, ngành nghề của thế giới đã thâm nhập vào thị trường Việt Nam thông qua hình thức NQTH (franchising). Trong lĩnh vực đồ ăn nhanh, người tiêu dùng đã dần quen thuộc với các thương hiệu nổi danh thế giới như KFC, Lotteria, Mc Donald's,…

Trong lĩnh vực siêu thị, Đức "đổ bộ" vào Việt Nam với hệ thống siêu thị Metro nằm ở những địa thế đẹp và thuận lợi. "Đại gia" mực in Cartridge World cũng không chịu kém cạnh khi bắt đầu chiến lược NQTH qui mô tại nước ta.

Đó là những thương hiệu lớn đã thành danh ở Việt Nam nhờ NQTH, còn rất nhiều những công ty, tập đoàn của nước ngoài khác cũng đang phát triển mạnh mẽ tại thị trường nước ta nhờ hình thức kinh doanh này.

Đây là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bởi vì bằng hình thức NQTH, các thương hiệu thế giới sẽ nhanh chóng chiếm lĩnh thị phần và tạo dựng lòng tin với người tiêu dùng Việt Nam. Đặc biệt với tâm lý "sính ngoại" phổ biến trong người tiêu dùng hiện nay thì khó khăn đối với các doanh nghiệp Việt là càng lớn.

Làm sao để thắng ngay trên "sân nhà"?

Ông Eckart Dutz, Tổng giám đốc Cartridge World Việt Nam, cho rằng lợi thế đang thuộc về các công ty nước ngoài, bởi "các doanh nghiệp Việt Nam rất yếu về kỹ thuật thiết lập hệ thống, duy trì chất lượng của hệ thống và kinh nghiệm kinh doanh nhượng quyền".

Tuy nhiên ông Lý Quý Trung, Giám đốc tập đoàn Nam An và chủ sở hữu thương hiệu Phở 24 lại nhận định NQTH chính là giải pháp cho các doanh nghiệp trong nước trước làn sóng thâm nhập của các thương hiệu quốc tế, bởi vì "ở Việt Nam vẫn còn rất ít người biết đến các thương hiệu thế giới". Và để giành lại thị phần thức ăn nhanh, Phở 24 đã dùng hình thức franchising, đến nay Phở 24 đã có 19 cửa hàng tại Việt Nam và 1 tại Indonesia.

Cũng như Phở 24, nhiều doanh nghiệp trong nước đã mạnh dạn và nhanh chóng áp dụng franchising để chiếm lĩnh lại thị trường. Về may mặc, có thể kể đến FOCI với 40 cửa hàng trên toàn quốc nhờ franchising.

Về đồ uống, café Trung Nguyên tiếp tục phát triển mạnh mẽ với hơn 1000 tiệm café ở mọi miền đất nước. Về thực phẩm, Công ty Tư vấn Y dược Quốc tế IMC đang thực hiện kế hoạch nhân rộng thương hiệu Lohha trên phạm vi cả nước.

Lohha là tên gọi chuỗi cửa hàng chuyên về thực phẩm chức năng, tại đây cung cấp những thực phẩm chức năng đảm bảo chất lượng, đồng thời có các chuyên gia tư vấn trực tiếp cho người tiêu dùng thông qua hệ thống webcam được gắn ngay trong cửa hàng. IMC hi vọng thông qua franchising, Lohha sẽ trở thành thương hiệu phổ biến với người tiêu dùng nội địa, từ đó tạo đà vươn ra thị trường thế giới.

Đây không chỉ là giải pháp để các doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh hiệu quả với các thương hiệu quốc tế mà còn là con đường để nền kinh tế nước ta phát triển. Bởi vì nếu chúng ta cứ mở các cửa hàng, chi nhánh cho các thương hiệu nước ngoài thông qua franchising, chỉ có một phần lợi nhuận vào tay chúng ta còn phần lớn vẫn chuyển ra nước ngoài.

Thứ Ba, 20 tháng 11, 2012

Thuật ngữ về franchise trong pháp luật Việt Nam

Một số thuật ngữ về franchise (nhượng quyền thương mại) được định nghĩa bởi Luật Thương Mại năm 2005 và theo Nghị định số 35/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về họat động nhượng quyền thương mại.

Một số thuật ngữ về franchise (nhượng quyền thương mại) được định nghĩa bởi Luật Thương Mại năm 2005 và theo Nghị định số 35/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về họat động nhượng quyền thương mại.

1. "Nhượng quyền thương mại":

Là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:

- Việc mua bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ phải được tiến hành theo cách thức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;

- Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành hoạt động kinh doanh.

2.."Bên nhượng quyền":

là thương nhân cấp quyền thương mại, bao gồm cả Bên nhượng quyền thứ cấp trong mối quan hệ với Bên nhận quyền thứ cấp.

3. "Bên nhận quyền":

là thương nhân được nhận quyền thương mại, bao gồm cả Bên nhận quyền thứ cấp trong mối quan hệ với Bên nhượng quyền thứ cấp.

4. "Bên nhượng quyền thứ cấp":

là thương nhân có quyền cấp lại quyền thương mại mà mình đã nhận từ Bên nhượng quyền ban đầu cho Bên nhận quyền thứ cấp.

5."Bên nhận quyền sơ cấp":

là thương nhân nhận quyền thương mại từ Bên nhượng quyền ban đầu. Bên nhận quyền sơ cấp là Bên nhượng quyền thứ cấp theo nghĩa của khoản 3 Điều này trong mối quan hệ với Bên nhận quyền thứ cấp.

6."Bên nhận quyền thứ cấp":

là thương nhân nhận lại quyền thương mại từ Bên nhượng quyền thứ cấp.

7. "Quyền thương mại":

bao gồm một, một số hoặc toàn bộ các quyền sau đây:

a) Quyền được Bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu Bên nhận quyền tự mình tiến hành công việc kinh doanh cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ theo một hệ thống do Bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của Bên nhượng quyền;

b) Quyền được Bên nhượng quyền cấp cho Bên nhận quyền sơ cấp quyền thương mại chung;

c) Quyền được Bên nhượng quyền thứ cấp cấp lại cho Bên nhận quyền thứ cấp theo hợp đồng nhượng quyền thương mại chung;

d) Quyền được Bên nhượng quyền cấp cho Bên nhận quyền quyền thương mại theo hợp đồng phát triển quyền thương mại.

8. "Kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại" :

Là công việc kinh doanh do Bên nhận quyền tiến hành theo hợp đồng nhượng quyền thương mại.

9. "Hợp đồng nhượng quyền thương mại":

Là thỏa thuận giữa bên nhượng quyền với bên nhận quyền, quy định các vấn đề liên quan đến hoạt động nhượng quyền. Hợp đồng NQTM phải được lập bằng tiếng Việt, theo hình thức văn bản, hoặc bằng các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.

Trong trường hợp nhượng quyền từ Việt Nam ra nước ngoài , ngôn ngữ của hợp đồng sẽ do các bên thỏa thuận. Hợp đồng NQTM có thể có các nội dung chủ yếu sau đây:

- Nội dung của quyền thương mại.

-  Quyền, nghĩa vụ của Bên nhượng quyền.

-  Quyền, nghĩa vụ của Bên nhận quyền.

-  Giá cả, phí nhượng quyền định kỳ và phương thức thanh toán.

-  Thời hạn hiệu lực của hợp đồng.

-  Gia hạn, chấm dứt hợp đồng và giải quyết tranh chấp.

10. "Hợp đồng phát triển quyền thương mại":

Là hợp đồng nhượng quyền thương mại theo đó Bên nhượng quyền cấp cho Bên nhận quyền quyền được phép thành lập nhiều hơn một cơ sở của mình để kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại trong phạm vi một khu vực địa lý nhất định.

11. "Quyền thương mại chung":

Là quyền do Bên nhượng quyền trao cho Bên nhượng quyền thứ cấp được phép cấp lại quyền thương mại cho các Bên nhận quyền thứ cấp. Bên nhận quyền thứ cấp không được phép cấp lại quyền thương mại chung đó nữa.

12."Hợp đồng nhượng quyền thương mại thứ cấp":

Là hợp đồng nhượng quyền thương mại ký giữa Bên nhượng quyền thứ cấp và Bên nhận quyền thứ cấp theo quyền thương mại chung.

Nhượng quyền thương mại - phương thức đầu tư an toàn

Nhượng quyền thương mại là một hình thức hợp tác, trong đó, bên nhượng quyền trao cho bên nhận quyền sử dụng mô hình, kỹ thuật kinh doanh, sản phẩm dịch vụ dưới thương hiệu của mình và nhận lại một khoản phí hay phần trăm doanh thu trong thời gian nhất định.

Nhượng quyền thương mại là một hình thức hợp tác, trong đó, bên nhượng quyền trao cho bên nhận quyền sử dụng mô hình, kỹ thuật kinh doanh, sản phẩm dịch vụ dưới thương hiệu của mình và nhận lại một khoản phí hay phần trăm doanh thu trong thời gian nhất định.

Trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO, nhượng quyền thương mại sẽ trở thành một trong những phương thức kinh doanh quan trọng. Hình thức này giúp các doanh nghiệp Việt Nam giữ được thị phần trước sự xâm nhập của hàng loạt tập đoàn bán lẻ, hay siêu thị nước ngoài.

Sẽ có nhiều "ông lớn" vào  Việt Nam

KFC đã thành công với 19 cửa hàng ở TP.HCM và mới khai trương cửa hàng đầu tiên tại Hà Nội. Dự kiến, cuối năm 2006, KFC sẽ mở thêm 3 cửa hàng nữa ở Hà Nội và hàng loạt cửa hàng tại các tỉnh miền Bắc. Lotteria phát triển với 18 cửa hàng, sắp tới Lotteria sẽ mở chiến lược kinh doanh ra Hà Nội và các tỉnh miền Bắc để phục vụ kiểu ăn "thời công nghiệp". Hay Jollibee, loại thức ăn nhanh của Philippines do Công ty Tân Việt Hương tại TP.HCM mua nhượng quyền cũng lần lượt chào hàng tại các siêu thị, trung tâm thương mại tại TP.HCM… Nhiều tập đoàn lớn của thế giới đã "đổ bộ" vào thị trường Việt Nam tìm cơ hội phát triển thương hiệu. "Người khổng lồ" trong "làng" thực phẩm thế giới Mc Donald's; Starbucks Cafe, cửa hàng tiện lợi Seven-Eleven; Wallmart... dự định sẽ đặt chân vào thị trường Việt Nam trong năm 2007. Theo bà Vũ Kim Hạnh, Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP.HCM (ITPC), tập đoàn bán lẻ hàng đầu của Mỹ, Wal-Mart đang có kế hoạch hợp tác kinh doanh với các doanh nghiệp của Thành phố. Một số mặt hàng truyền thống của Việt Nam như thủ công mỹ nghệ, may mặc, thực phẩm là những sản phẩm tiềm năng có thể áp dụng mô hình này.

Ông Han Guang Chou, Phó Tổng giám đốc Han's Singapore Pte. Ltd, một thương hiệu nổi tiếng về bánh ngọt, cà phê, đồ ăn nhanh tại Singapore cho biết, Han's đã tiêu chuẩn hóa tất cả các công đoạn, sẵn sàng "xuất ngoại" sang Việt Nam. Những đối tác mua thương hiệu của Han's sẽ được hỗ trợ về tiếp thị, quảng cáo, nhất là trong giai đoạn thiết lập ban đầu.

Dự báo, trong thời gian tới, hình thức kinh doanh này sẽ bùng phát ở Việt Nam, khi nhiều nhãn hiệu nước ngoài nổi tiếng đang ngấp nghé và một số thương hiệu nội cũng đang ráo riết thực hiện phương thức kinh doanh mới này.

Và nhiều thương hiệu Việt Nam hướng ra thế giới

Nhiều doanh nghiệp Việt Nam có kế hoạch mở rộng ra thị trường thế giới nhiều tiềm năng như Mỹ, EU hay Nhật Bản. Hình thức này vừa giúp doanh nghiệp thâm nhập vào những thị trường lớn với chi phí thấp, vừa là cách hữu hiệu để bảo vệ nhãn hiệu của doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường nước ngoài.

Công ty Cà phê Trung Nguyên là một trong những doanh nghiệp Việt Nam đầu tiên nắm bắt hình thức kinh doanh này. Đến nay, thương hiệu Trung Nguyên đã có mặt tại 64 tỉnh, thành phố trên cả nước với hơn 500 quán cà phê nhượng quyền chính thức. Thương hiệu này đã có mặt tại Nhật Bản, Campuchia, Singapore, Thái Lan. Hiện nay, mô hình G7 Mart của Trung Nguyên tiếp tục được xem là bước đột phá trong việc thực hiện nhượng quyền thương mại, nhằm cạnh tranh với các nhà phân phối nước ngoài để chiếm lĩnh thị trường bán lẻ.

Cùng với Công ty Cà phê Trung Nguyên, Công ty Cổ phần Kinh Đô cũng là một trong những doanh nghiệp rất thành công với mô hình này, với mạng lưới 150 nhà phân phối và trên 30.000 điểm bán lẻ rộng khắp trên cả nước. Nhiều doanh nghiệp kinh doanh thực phẩm tại TP.HCM đang có kế hoạch mở cửa hàng fast food, sau đó sẽ nhượng quyền, mà hai đơn vị tiên phong sẽ là Kinh Đô và Vissan.

Với phương thức này, thương hiệu Phở 24 đã xây dựng được 35 cửa hàng tại ba miền Bắc-Trung-Nam và 3 cửa hàng ở nước ngoài (2 ở Indonesia; 1 ở Philippines) và dự kiến có 80 cửa hàng vào năm 2007 và 100 cửa hàng vào năm 2008, trong đó đã nhượng quyền thương mại 8 cửa hàng. Nhiều doanh nghiệp Singapore có ý định tìm kiếm đối tác Việt Nam để nhượng quyền thương mại. Theo tiến sĩ Lý Quý Trung, Giám đốc điều hành Công ty Nam An - Phở 24, việc chọn người mua franchise (nhượng quyền thương mại) là rất quan trọng, phải chọn đối tác có khả năng quản lý, điều hành và quản trị, cũng như phải trung thành với hệ thống. Với kết quả này, trong thời gian tới, Phở 24 sẽ mở rộng thương hiệu đến tận Singapore, Malaysia, Thái Lan, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc và Nhật Bản.

Công ty Tranh thêu tay XQ Silk đã chuyển nhượng thành công nhãn hiệu của mình tại Mỹ, với giá 100.000 USD. Thương hiệu thời trang Foci, trong 48 cửa hiệu thời trang Foci hiện nay, có 35 cửa hiệu nhượng quyền thương mại. Dự kiến, năm 2008, Foci sẽ nhân lên 100 cửa hiệu trên toàn quốc. Mục tiêu lâu dài của Foci là xây dựng một thương hiệu thời trang đẳng cấp quốc tế và đưa Foci ra thế giới bằng con đường nhượng quyền thương mại.

Mô hình chuyển nhượng thương mại còn rất mới mẻ với các doanh nghiệp Việt Nam. do vậy, các doanh nghiệp cần phải chú ý đến cơ sở pháp lý, đăng ký bảo hộ thương hiệu hàng hóa trong nước và ở cả nước ngoài; đối tác nhượng quyền thương mại phải có giấy phép kinh doanh…

Theo dự báo, trong thời gian tới, sẽ có nhiều doanh nghiệp tiếp cận phương thức này và đây chính là thời điểm thuận lợi cho mô hình nhượng quyền thương mại bùng nổ với hàng chuỗi thương hiệu Việt Nam xuất hiện trên thị trường quốc tế. Nhiều hoạt động xúc tiến thương mại sẽ diễn ra để hỗ trợ cho doanh nghiệp trong vấn đề này, như Diễn đàn Doanh nghiệp toàn cầu và Hội chợ franchise tổ chức tại Singapore (từ 29-10 đến 2-11-2006), với sự tham gia của 350 trong tổng số 500 tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới. Một đoàn doanh nghiệp Việt Nam sẽ sang Singapore, vừa dự khóa đào tạo ngắn ngày về franchise, dự Hội chợ Franchise, vừa gặp gỡ các thương hiệu quốc tế để học hỏi, tìm cơ hội hợp tác làm ăn.

Thứ Hai, 19 tháng 11, 2012

Mua Franchise cần lưu ý gì?

Nhượng quyền thương mại (NQTM) được xem là hình thức đầu tư hiệu quả và an toàn trong kinh doanh. Đây là cơ hội mới cho những ai muốn chiếm lĩnh thị trường, phát triển thương hiệu một cách nhanh chóng.

Nhượng quyền thương mại (NQTM) được xem là hình thức đầu tư hiệu quả và an toàn trong kinh doanh. Đây là cơ hội mới cho những ai muốn chiếm lĩnh thị trường, phát triển thương hiệu một cách nhanh chóng.

Nhiều chuyên gia kinh tế dự đoán NQTM là xu thế tất yếu của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới. Vì vậy, không có gì là xa vời nếu một ngày nào đó bỗng chốc bạn muốn "sở hữu" một cửa hàng đóng mác McDonald's hay Kentucky Fried Chicken. Chỉ cần bạn lưu ý một số điều cơ bản sau:

Pháp lý hợp đồng:

FRANCHISE: đang là thời sự nóng, những luật lệ kinh doanh trong nhượng quyền ở Việt Nam mới chỉ có Nghị định 35/2006/NĐ-CP, chưa rõ ràng và chưa lường hết các mối quan hệ phức tạp trong franchise. Do đó cả bên bán lẫn bên mua franchise đều cần sự am hiểu và thận trọng cần thiết trước khi đặt bút kí vào một hợp đồng mua - bán franchise.

1.  Hãy đọc tài liệu mà người bán franchise phải công bố cho người mua franchise (Uniform Franchise Offering Circular – viết tắt là UFOC). Bạn sẽ biết thêm về lịch sử hình thành và phát triển của thương hiệu định mua, cách thức đào tạo nhân viên cũng như chiến lược marketing, tất cả các loại "tiền" mà bạn phải trả. Những gì "khám phá" khi  đọc UFOC có thể giúp bạn loại bớt những hợp đồng không tiềm năng.

2 . Hoạt dộng NQTM phải được hợp thành hợp đồng theo đúng trình tự và luật pháp Việt Nam cụ thể là Nghị định của Chính phủ quy định về franchise. Hợp đồng franchise đúng nghĩa hiện nay phải căn cứ theo Luật thương mại (được thông qua tháng 6 năm 2006)

3 . Bên nhượng quyền phải lập bản giới thiệu về NQTM của mình cho bên dự kiến nhận nhượng quyền ít nhất 15 ngày trước khi kí kết hợp đồng. Các nội dung bắt buộc của bản giới thiệu về NQTM do Bộ Thương mại quy định và công bố.

4.  Khi soạn thảo hợp đồng phải hết sức cẩn trọng, chính xác nhằm đảm bảo quyền lợi của mình. Có 4 rủi ro cho hợp đồng franchise, đặc biệt là khi không đăng ký. Đó là khả năng vô hiệu hợp đồng, không lấy được tiền bản quyền, không tính được phí chuyển nhượng và phạt hợp đồng.

5 . Hợp đồng luôn được soạn thảo bởi bên bán franchise nên có khuynh hướng bảo vệ lợi ích của thương hiệu. Do đó, người mua franchise nên thông qua một văn phòng luật sư để tư vấn hoặc hỗ trợ đàm phán các hạng mục trong hợp đồng trước khi quyết định.

6.  Nghiên cứu kĩ các điều khoản trong hợp đồng: quy định về địa điểm, đầu tư, vận hành sản phẩm, các yêu cầu về huấn luyện, kiểm tra, bảo trì, bảo hiểm tài sản, nhân viên… Từ đó đối chiếu lại với các điều kiện của mình để đưa ra câu hỏi cho nhà nhượng quyền và lắng nghe trả lời.

7 . Phân biệt rõ hợp đồng franchise hay chỉ là hợp đồng cung cấp dịch vụ, chuyển giao công nghệ, hợp đồng thương mại… để có những quy định cụ thể và xác định cơ quan Nhà Nước sẽ phải đến để đăng ký hợp đồng.

8 . Nhất thiết phải đăng ký hợp đồng tại các cơ quan Nhà Nước để đảm bảo giá trị. Chẳng hạn, hợp đồng franchise thuộc loại chuyển giao công nghệ sẽ phải đến đăng ký tại Bộ công nghiệp.

9. Khi liên quan đến bất cứ những gì ràng buộc về pháp lý thì nội dung phải trình bày rõ ràng. Người mua nên đọc kỹ từng chữ và hiểu rõ  nội dung hợp đồng.

10. Khi đàm phán nên tập trung vào những hạng mục có tiềm năng đàm phán được. Các hạng mục sau đây được xem là rất khó đàm phán: Phí franchise  ban đầu, phí duy trì thương hiệu hàng tháng, thời hạn hợp đồng, các điều khoản hủy bỏ hợp đồng…

11 . Tất cả những hạng mục mà bên bán franchise đồng ý điều chỉnh hay bổ sung (nếu có) phải được chỉnh sửa, cập nhật cẩn thận đến từng chữ, từng dòng.

12 . Khi ký tên vào hợp đồng, người mua franchise nên ghi rõ ngày ký ngay phía dưới bên cạnh chữ ký.

13. Trong quá trình hoạt động, bạn phải tuân thủ việc giữ uy tín và sự thống nhất của hệ thống, nếu không, bạn sẽ bị kiện vì vi phạm bản quyền.

Những lưu ý trên đây rất có ích cho người mua franchise!

Vốn đầu tư

Thông thường, doanh nghiệp franchise chỉ chuyển giao mô hình kinh doanh, hỗ trợ về quy trình quản lý, quảng bá thương hiệu… hầu như mọi chi phí khác đều do bên mua franchise đảm nhiệm. Những chi phí đó có thể lên rất cao mà đôi khi phải mất mấy năm mới khấu hao hết. Vì vậy, trước khi muốn mua franchise, doanh nghiệp cần phải cân nhắc kỹ tất cả các khoản chi phí để có quyết định đúng đắn.

- Phí nhượng quyền ban đầu: phí hành chính chuyển giao công thức kinh doanh, đào tạo, hõ trợ chọn địa điểm. Nó không bao gồm việc cung cấp những vật dụng cố định, đồ đạc hay bất động sản. Bên mua franchise phải thanh toán một lần và không được hoàn lại.

- Phí hàng tháng: duy trì sử dụng nhãn hiệu, thương hiệu, dịch vụ hỗ trợ… Mức phí do các bên thỏa thuận, thường dựa trên một tỉ lệ phần trăm của doanh số bán, cũng có thể là một con số cụ thể.

- Chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng, nhân lực: chi phí để vận hành doanh nghiệp mới thành lập, bao gồm: mua sắm các máy móc, thiết bị, mua hàng trữ sẵn trong kho.

- Chi phí hoàn tất tài liệu pháp lý.

- Chi phí quảng cáo: nhiều người mua franchise buộc phải đóng góp thường xuyên vào ngân quỹ quảng cáo cho bên bán franchise, trong khi bên này được toàn quyền quyết định việc quản lý, sử dụng ngân quỹ.

Theo tính toán, để mở một franchise doanh nghiệp cần khoảng 200.000USD (giá trung bình), trong đó, chi phí khởi sự khoảng từ 10 – 25.000 USD. Ví dụ phí chuyển nhượng  một cửa hàng kem Carvel của Mỹ là 25.000USD, Carvel lưu động là 15.000 USD.

Tuy nhiên, đối với những thương hiệu có kế hoạch phát triển mạnh thì chi phí đầu tư ban đầu sẽ không dưới 100.000USD. Thêm vào đó, một khi cộng các chi phí in ấn, kiểm toán, tiếp thị và lương nhân viên, chủ thương hiệu cần có số vốn không dưới 250.000USD để thực hiện mục tiêu của mình. Chẳng hạn để mua franchise của phở Hòa (một thương hiệu phở khá nổi tiếng ở nước ngoài do Việt kiều làm chủ) người đăng ký phải có tối thiểu 350 ngàn USD để đầu tư. Hoặc nếu muốn làm chủ một nhà hàng fastfood nổi tiếng McDonald's, bạn phải trả phí franchise khoảng 150 ngàn USD (không được vay mượn). Tuy nhiên, tổng chi phí thực tế có thể từ 430 ngàn đến 750 ngàn USD. Số tiền này dành cho việc xây cất nhà, mua sắm các trang thiết bị… Thông thường, 40% tổng chi phí phải trả là tiền tự có (không đi vay).

Phí nhượng quyền của các thương hiệu Việt Nam hiện chỉ khoảng 10.000 USD/cửa hàng, khá thấp so với mua franchise từ các nước khác. Tổng chi phí đầu tư cho cửa hàng Phở 24 tại Việt Nam khoảng 50.000 – 60.000USD bao gồm phí nhượng quyền, chi phí xây dựng cải tạo mặt bằng, mua sắm trang thiết bị. Tương tự, để làm chủ một cửa hàng bánh Kinh Đô, phải đảm bảo số vốn 700 triệu đến 1 tỉ đồng.

Thông thường các công ty franchise có sẵn một khoản vay lợi tức thấp cho doanh nghiệp mở franchise (các khoản trả chậm và hỗ trợ tài chính). Chẳng hạn thương hiệu bán lẻ 7-Eleven's có chương trình "Tự mình làm chủ" hỗ trợ doanh nghiệp. Nếu chỉ mở franchise là một cửa hàng nhỏ hoặc một ki-os thì giá trung bình là 3.000 – 5.000USD.

Bạn có thể vay vốn ngân hàng khi nhận quyền thương mại từ đối tác khác. NQTM có độ rủi ro không lớn như tự đầu tư nên rất được ngân hàng quan tâm. Đây là một lợi thế từ franchise.

Địa điểm:

Yếu tố vị trí hay địa điểm mặt bằng kinh doanh đóng vai trò quyết định trong việc thành bại. Cho dù mô hình kinh doanh của hệ thống franchise có tuyệt vời đến đâu, nếu chọn sai vị trí thì gần như chắc chắn sẽ nắm phần thất bại. Một vị trí thuận lợi cần đảm bảo ít nhất các đặc điểm sau:

- Dễ thấy, dễ tìm: Nếu khách hàng không nhìn thấy bảng hiệu từ xa, họ sẽ không tìm ra cửa hiệu nên có thể sẽ đi luôn hoặc trầm trọng hơn là đi nhầm vào cửa hàng khác. Và hầu hết những người khách "đi nhầm" này sẽ trở thành khách hàng trung thành của đối thủ cạnh tranh!

- Thuận tiện: Nhiều cửa hiệu rất đẹp, rất tốt nhưng nằm ở vị trí không thuận tiện nên thất bại hoặc không thành công như mong muốn. Cửa hiệu tọa lạc trên con đường một chiều (đặc biệt là bên luồng đường xe hơi) sẽ gây khó khăn cho khách hàng đi xe gắn máy. Bãi giữ xe cũng là một yếu tố quyết định, nhất là đối với Việt Nam.

- "Hàng xóm" tốt và phù hợp: Một nhà hàng cao cấp thì không thể nằm trong một khu vực quá bình dân hoặc ngược lại.

- Tâm lý khách hàng: Khách hàng có khuynh hướng ngại đến các nhà hàng, dịch vụ giải trí nằm gần các cơ quan chức năng hay cộng đồng như công an phường, tòa án, bệnh viện, trường học, nhà trẻ…

- Số lượng cửa hàng cùng thương hiệu: Quá nhiều cửa hàng nhượng quyền của một thương hiệu cùng tọa lạc trong một khu vực sẽ dẫn đến việc cạnh tranh gay gắt và hiệu quả kinh doanh không cao.

Thông thường, song song với việc hỗ trợ đào tạo nhân viên, bên bán franchise sẽ hỗ trợ tìm địa điểm bằng cách tư vấn khu vực nào thích hợp với mô hình của mình, khảo sát mặt bằng… Và nếu đánh giá mặt bằng đó không thích hợp thì dù hai bên có đàm phán sâu tới đâu cũng chưa thể đi đến quyết định cuối cùng được.

Trên đây là những kiến thức cơ bản nhất về franchise. Tuy đơn giản nhưng nó sẽ giúp ích cho bạn rất nhiều trong quá trình lựa chọn và mở một cửa hàng nhượng quyền. Điều quan trọng là cách thức mà bạn quản lý, điều hành cửa hàng ấy như thế nào, cũng như sự hợp tác giữa bạn và phía nhượng quyền vì sự thống nhất và uy tín của thương hiệu, để cùng tạo sự tăng trưởng vững mạnh cho thương hiệu đó.

Chủ Nhật, 18 tháng 11, 2012

Giải đáp những khúc mắc khi mua nhượng quyền

Mô hình kinh doanh nhượng quyền tại Việt Nam đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư. Nếu bạn đang đứng trước lựa chọn mua nhượng quyền, những thông tin, kiến thức sau sẽ rất hữu ích.

  • Doanh nghiệp Mỹ sắp "đổ bộ" franchise vào Việt Nam

* Hỏi: Tôi có thể thương lượng phí nhượng quyền không?

- Harish Babla - Managing Partner nhuongquyenvietnam.com trả lời: Các điều khoản trong hợp đồng nhượng quyền thường được chuẩn hóa càng giống nhau càng tốt, cho tất cả mọi đối tượng trong toàn hệ thống nhượng quyền thương mại. Do vậy, thông thường bạn không có nhiều cơ hội thương lượng để thay đổi phí nhượng quyền trong hợp đồng.

Điều này hoàn toàn đúng với những hệ thống nổi tiếng và chuẩn hóa lâu năm, bên nhượng quyền luôn từ chối thương lượng về mức phí nhượng quyền ban đầu hay phí nhượng quyền hàng tháng.

Tuy nhiên, đối với những hệ thống nhượng quyền mới, hay những thương hiệu muốn vào một thị trường mới, khi bên nhượng quyền quá mong muốn tham gia thị trường để chiếm thị phần, thì khả năng thương lượng về mức phí nhượng quyền có thể xảy ra.

Một số nhà nhượng quyền có thể đồng ý giảm mức phí nhượng quyền ban đầu, hay miễn phí nhượng quyền hàng tháng trong khoảng thời gian ban đầu để hấp dẫn và khuyến khích bên nhận nhượng quyền.

Bạn cũng nên cẩn thận với những hệ thống sẵn sàng giảm phí nhượng quyền một cách liều lĩnh. Bên bán nhượng quyền nên có sự tin tưởng vào mô hình kinh doanh của chính họ và chọn lọc bên mua nhượng quyền một cách khắt khe. Một khoản giảm phí nho nhỏ có thể làm cho hai bên hài lòng và đi đến thỏa thuận, nhưng việc xây dựng niềm tin lâu dài mới là điều quan trọng hơn cả.

* Hỏi: Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi đổi ý trong một thời gian ngắn sau khi ký hợp đồng nhượng quyền?

- Luật sư Bùi Hồng Ngọc (Indochina Consult) trả lời: Bạn đừng bao giờ tham gia vào một hệ thống nhượng quyền nếu bạn chưa tự tin là mình muốn tham gia, chưa có đầy đủ khả năng hoặc chưa thu thập đủ thông tin.

Nếu phía nhượng quyền cố hối thúc bạn ký hợp đồng hoặc nói với bạn rằng có một đối tượng khác đang mong muốn ký hợp đồng này, thì bạn càng nên cẩn trọng và điều tra thêm về hệ thống đó cho đến khi bạn chắc chắn mình đã hiểu rõ.

Lý do để bạn phải chắc chắn trước khi đặt bút ký vào hợp đồng là vì bạn hoàn toàn không có cơ hội rút lui khi bạn đột ngột đổi ý. Có một số hợp đồng nhượng quyền có thời hạn cho phép rút lui rất ngắn, thông thường là 7 ngày gọi là khoảng thời gian "cooling off", nhưng trường hợp này rất hiếm và thường xảy ra trước khi trả phí nhượng quyền.

Thông thường các hợp đồng nhượng quyền có thời hạn là 5 năm hoặc hơn, cả bên nhượng quyền hay bên nhận nhượng quyền đều không có quyền chấm dứt hợp đồng, ngoại trừ một trong hai bên vi phạm nghiêm trọng hợp đồng.

Chắc chắn là trong tất cả các hợp đồng nhượng quyền đều không cho phép bên nhượng quyền rút lui một cách đột ngột ngay sau khi đã được bên nhượng quyền đào tạo và chuyển giao bí quyết kinh doanh.

Nếu bên nhận nhượng quyền rút lui bất ngờ sau khi được chuyển giao bí quyết kinh doanh, bên nhượng quyền dĩ nhiên sẽ không trả lại phí nhượng quyền ban đầu và có thể kiện bên nhận nhượng quyền ra tòa.

Bên nhận nhượng quyền có thể phải bồi thường phí tổn cho hệ thống bằng tiền phí nhượng quyền hàng tháng (đáng lẽ phải trả) nhân với một khoản nhất định. Hợp đồng nhượng quyền không tạo cơ hội cho bên nhận nhượng quyền rút lui một cách đột ngột.

* Hỏi: Tôi có thể đồng thời vừa làm công việc cũ mà vừa mua một kinh doanh nhượng quyền mới không?

- TKLee - International Partner nhuongquyenvietnam.com trả lời: Điều đó có thể xảy ra đối với một số hệ thống nhượng quyền nhưng không được khuyến khích. Cũng tương tự như việc thành lập một cơ sở kinh doanh mới, mua một cơ sở nhượng quyền đòi hỏi bạn phải toàn tâm, toàn ý và cam kết dành đầy đủ thời gian và khả năng cho nó.

Một số hệ thống nhượng quyền có thể đòi hỏi bạn tham gia đào tạo ban đầu từ vài tuần lễ đến vài tháng, do vậy bạn khó có thể vừa đi làm vừa tham gia đào tạo được. Những năm đầu tiên là thời gian khó khăn nhất để bạn hiểu hết toàn bộ hệ thống hoạt động cũng như đưa cơ sở kinh doanh của mình đi vào hoạt động ổn định.

Nếu bạn chỉ dành một nửa thời gian cho công việc kinh doanh thì sự sao nhãng có thể là nguyên nhân của thất bại.

Theo DNSG - Nhượng quyền VN

Thứ Bảy, 17 tháng 11, 2012

2,67 tỷ USD và thời của mua bán, sáp nhập

2011 tiếp tục là một năm đầy sôi động của hoạt động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp (M&A) tại Việt Nam. Tổng giá trị các thương vụ đã hoàn thành đạt 2,67 tỷ USD, cao hơn gấp 1,5 lần năm 2010, với nhiều thương vụ lớn.

So với những năm trước, các thương vụ M&A của năm 2011 nổi lên với nhiều điểm khác biệt như: M&A có yếu tố nước ngoài vẫn là phổ biến, trong đó dòng tiền chủ yếu đến từ Nhật Bản; hàng tiêu dùng, tài chính và bất động sản là các ngành có giá trị thương vụ chuyển nhượng cao nhất; giao dịch M&A đã xuất hiện nhiều khoản đầu tư do các quỹ thoái vốn; hoạt động tái cấu trúc các tập đoàn của Việt Nam tương đối sôi động...

Khối ngoại là chủ thể

Thương vụ sáp nhập Vinpearl vào Vincom đã hoàn tất, khép lại một năm 2011 đầy sôi động của hoạt động M&A tại Việt Nam

Xét về chủ thể tham gia M&A, trong tổng số 2,67 tỷ USD giá trị các thương vụ hoàn thành trong năm 2011 tại Việt Nam thì tổng giá trị các thương vụ từ các tập đoàn nước ngoài đầu tư vẫn chiếm tỷ trọng khá cao, 81,3%.

Có thể kể ra ba thương vụ lớn nhất như: Pokphand Trung Quốc tham gia vào thị trường Việt Nam bằng việc mua 70,8% Công ty Cổ phần Chăn nuôi C.P Việt Nam; Tập đoàn Viễn thông VimpelCom của Nga tăng tỷ lệ sở hữu trong liên doanh Gtel-Mobile lên 49% và IFC mua 10% của Vietinbank.

Cũng trong năm 2011, các tập đoàn từ Nhật Bản có đóng góp nhiều nhất vào dòng tiền M&A cho thị trường Việt Nam. Tổng giá trị thương vụ lên đến 236 triệu USD với các thương vụ như SBI - FPTS: 25 triệu USD; Nikko Cordial - PSI: 6,9 triệu USD trong lĩnh vực tài chính, Japan Asia Vietnam mua lại tòa nhà Centre Point tại Tp.HCM trong lĩnh vực bất động sản, Unicharm mua toàn bộ Diana Việt Nam giá 128 triệu USD trong lĩnh vực hàng tiêu dùng...

Một điều đáng chú ý là giao dịch M&A năm 2011 đã xuất hiện nhiều khoản đầu tư do các quỹ thoái vốn, trong đó phải kể đến việc quỹ Vietnam Opportunity Fund (VOF) của Vinacapital bán 24,9% cổ phần tại Halico cho Tập đoàn đồ uống Diageo và bán 24% của Tập đoàn Hoàn Mỹ cho Fortis của Ấn Độ, Dragon Capital chuyển nhượng 6,6% cổ phần tại Sacombank sau 10 năm đầu tư vào ngân hàng này.

Đây là xu hướng được dự kiến sẽ tiếp tục trong năm 2012 và các năm tiếp theo khi mà các quỹ đã hết hạn sau khoảng thời gian 5 năm hoạt động tại Việt Nam. Với việc cho phép chuyển các quỹ đầu tư từ dạng đóng sang dạng mở, việc thoái vốn của các quỹ đầu tư trong năm 2012 sẽ còn thuận lợi hơn.

Tâm điểm: tiêu dùng, ngân hàng và bất động sản

Trong số các thương vụ M&A thực hiện trong năm 2011, các doanh nghiệp ngành hàng tiêu dùng, ngân hàng và bất động sản trở nên "đắt hàng" nhất.

Bên cạnh ngành hàng tiêu dùng có giá trị lớn nhất, trên 1 tỷ USD, các thương vụ M&A liên quan đến các ngân hàng, công ty chứng khoán IFC/Vietinbank, IFC/An Binh Bank; LienVietBank/VPSC; PVI/Tanlax và các thương vụ công ty chứng khoán gồm: SBI/FPTS, Nikko Cordial/PSI, Xuan Thanh Group/Vincom Securities, MaritimeBank/Standard Securities, KIS/EPS Securities, CitiGroup/Horizon Securities... đã tạo nên sự sôi động nhất trong ngành tài chính của Việt Nam.

Riêng với bất động sản, chính những khó khăn trong năm 2011 khiến cho hoạt động M&A trong lĩnh vực này diễn ra tương đối sôi động. Các giao dịch thống kê được trong năm 2011 cho thấy tổng giá trị các thương vụ đạt khoảng 250 triệu USD, trong đó còn nhiều giao dịch khác đã diễn ra nhưng không được công bố, chủ yếu là đối tác trong nước bán cho các nhà đầu tư nước ngoài như: CapitaLand thông qua các công ty con mua dự án tại Q.2, Tp.HCM của Khang Dien SaiGon SJC (49 triệu USD), tại Bình Chánh, Tp.HCM của Quoc Cuong SaiGon JSC (7,3 triệu USD); dự án Somerset Central TD, Hải Phòng của Thuy Duong Investment JSC ...

Tái cấu trúc qua M&A

Trong năm 2011, thị trường Việt Nam chứng kiến nhiều doanh nghiệp trong nước thực hiện tái cấu trúc thông qua hoạt động M&A. Có thể kể ra các thương vụ tiêu biểu như: FPT Trading, FPT Software và FPT FIS thực hiện hoán đổi cổ phần cho các cổ đông của công ty con này với cổ phần của FPT để trở thành các công ty 100% vốn thuộc FPT; Tập đoàn Hapaco đã phát hành 1,5 triệu cổ phiếu để hoán đổi cổ phiếu của các cổ đông nhỏ lẻ tại Hapaco Hải Âu (GHA) và Hapaco Yên Sơn (YSC) đồng thời hủy niêm yết hai cổ phiếu này trên HNX; Vinpearl Corp đã phát hành gần 25,6 triệu cổ phiếu để hoán đổi lấy cổ phiếu của 3 công ty liên kết: Vinpearl Đà Nẵng, Vinpearl Hội An và Vincharm.

Đặc biệt trong quý 4/2011, thị trường tiếp tục chứng kiến một thương vụ M&A lớn nhất giữa hai doanh nghiệp Việt Nam là Công ty Cổ phần Vincom và Công ty Cổ phần Vinpearl. Đây là thương vụ sáp nhập theo chiều ngang điển hình (horizontal merger) giữa hai doanh nghiệp Việt Nam nhằm mở rộng quy mô, đa dạng hóa ngành nghề, giúp đạt tới một vị thế và quy mô mới trên thị trường.

Với quy mô doanh nghiệp và phạm vi hoạt động rộng lớn, đồng thời đây đều là các công ty đã niêm yết, cổ phiếu hiện được giao dịch tập trung và giá cả biến động hàng ngày, việc thực hiệp sáp nhập là rất phức tạp. Hình thức M&A được lựa chọn là hoán đổi cổ phiếu. Theo đó, Vincom sẽ phát hành thêm cổ phiếu để đổi lấy cổ phiếu Vinpearl của các cổ đông. Sau hoán đổi Vincom sẽ sở hữu 100% vốn điều lệ của Vinpearl và chuyển các công ty này thành công ty TNHH 1 thành viên trực thuộc.

Đến nay, thương vụ sáp nhập Vinpearl vào Vincom đã hoàn tất, khép lại một năm 2011 đầy sôi động của hoạt động M&A tại Việt Nam.

Thứ Sáu, 16 tháng 11, 2012

Nhượng quyền thương mại và cấp phép kinh doanh

Có bao giờ bạn đã tự hỏi về sự khác biệt giữa hai khái niệm nhượng quyền thương mại (Franchise) và cấp phép kinh doanh (license) chưa? Và chúng tôi đã phỏng vấn một chuyên gia trong lĩnh vực Franchise & Opportunities để giải thích rõ về những khác biệt giữa hai khái niệm quen thuộc trên.

Có bao giờ bạn đã tự hỏi về sự khác biệt giữa hai khái niệm nhượng quyền thương mại (Franchise) và cấp phép kinh doanh (license) chưa? Và chúng tôi đã phỏng vấn một chuyên gia trong lĩnh vực Franchise & Opportunities để giải thích rõ về những khác biệt giữa hai khái niệm quen thuộc trên.

Thường thì mọi người hay đặt câu hỏi này: Hiện tại tôi đang tìm kiếm một vài cơ hội kinh doanh. Một số là nhượng quyền thương mại còn một số khác lại được gọi là các cơ hội kinh doanh. Ông có thể vui lòng giải thích cho tôi đâu là sự khác biệt căn bản giữa chúng?

Trả lời: Theo tôi thật khó để có thể lý giải được sự khác biệt giữa một vụ nhượng quyền thương mại và cấp phép một cơ hội kinh doanh bởi vì chúng thật sự không quá khác biệt nhau về bản chất. Nhưng trước khi đặt bút ký vào một bản hợp đồng thỏa thuận với những hình thức kinh doanh trên thì bắt buộc bạn phải hiểu rõ bản chất hai cụm từ này.

Hình thức phổ biến nhất của một cơ hội kinh doanh được cấp phép là việc một số chủ công ty cho thuê các kệ để trưng bày hàng hóa, dựng lên quan hệ phân phối giữa công ty hay nhà cung cấp và các nhà buôn hàng hóa (thương gia tự doanh), và các trạm máy bán hàng tự động trên đường phố.

Những cơ hội kinh doanh này có nghĩa là: khi một công ty hoặc một công ty con/chi nhánh của họ cung cấp sản phẩm dịch vụ cho người phụ trách điều hành máy bán hàng, và sau đó anh ta sẽ có nhiệm vụ tiêu thụ những sản phẩm, dịch vụ của họ.

Công ty sẽ cung cấp cho anh ta cửa hàng để trưng bày và tiêu thụ hàng hóa, khách hàng hay cung cấp cho họ địa điểm để đặt các máy bán  hàng tự động (thường là dọc các đường phố đông đúc người qua lại). Khi đó người phụ trách máy sẽ phục vụ khách hàng bằng cách tiếp thêm hàng vào máy hay các kệ chứa mỗi khi cạn hay hết hàng.

Trong khi một số hệ thống nhượng quyền thương hiệu cũng có những yếu tố như trên, nhưng một trong những điểm khác biệt chính yếu nhất để phân biệt hai khái niệm này, chính là mức độ trong mối quan hệ giữa bên thực hiện kinh doanh và bên công ty cung cấp hàng hóa dịch vụ. Dưới đây là một số khác biệt cơ bản nhất:

Tên gọi thông thường

Nhượng quyền thương mại:Doanh nghiệp được nhượng quyền thương mại sẽ sử dụng chính thương hiệu của bên nhượng quyền thương mại.

Cơ hội kinh doanh:Người được cấp phép kinh doanh sẽ không mang thương hiệu của bên cấp phép kinh doanh.

Sự hỗ trợ

Nhượng quyền thương mại:Một doanh nghiệp khi được nhượng quyền thương mại sẽ đồng thời được hỗ trợ về  nhiều mặt như: đào tạo, tiếp thị và những sự hỗ trợ khác từ phía nhượng quyền thương mại liên tục một khi còn thực hiện việc kinh doanh này.

Cơ hội kinh doanh:Bên cấp phép kinh doanh nếu có cũng chỉ nhận được rất ít sự hỗ trợ từ phía công ty cấp phép ngoại trừ những nguồn cung cấp hàng hóa, sản phẩm để bán.

Mức độ tiêu chuẩn của hàng hóa và dịch vụ

Nhượng quyền thương mại:Doanh nghiệp hay cá nhân được nhượng quyền thương mại trên cơ sở độc quyền hay bán độc quyền đối với sản phẩm dịch vụ của bên nhượng quyền kinh doanh và mức độ tiêu chuẩn dù là nhỏ nhất cũng được thiết lập bởi bên nhượng quyền kinh doanh.

Cơ hội kinh doanh:Doanh nghiệp hay cá nhân được cấp phép thông thường có thể kinh doanh một loạt các dòng sản phẩm và dịch vụ khác nhau - và trong một vài trường hợp những sản phẩm hay dịch vụ này có thể cạnh tranh lẫn nhau.

Phí kinh doanh

Phí trong nhượng quyền kinh doanh:Bên được nhượng quyền kinh doanh thường sẽ phải trả một khoản phí tiền bản quyền kinh doanh liên tục theo thời gian kinh doanh được tính trên lượng doanh thu thu được từ kinh doanh.

Phí trong cấp phép cơ hội kinh doanh:Đối với cấp phép cơ hội kinh doanh thì việc trả phí lại không được tính theo doanh số bán mà người ta lại tính thẳng vào giá của các sản phẩm và dịch vụ nguyên liệu đầu vào mà bên cấp phép cung cấp.

Các thương vụ cấp phép cơ hội kinh doanh sở hữu một vài điểm mạnh so với nhượng quyền thương mại; trong đó một lợi thế chính là sự độc lập và tính linh hoạt trong quá trình hoạt động mà bạn không thể tìm thấy trong các hình thức nhượng quyền kinh doanh. Ngoài ra chi phí từ các vụ cấp phép cơ hội kinh doanh cũng ít hơn so với nhượng quyền kinh doanh rất nhiều trong giai đoạn khởi đầu của quá trình kinh doanh trong cùng một ngành nghề.

Không những thế bên cấp phép cơ hội kinh doanh cũng không yêu cầu bên được cấp phép phải trả các khoản phí bản quyền định kỳ như bên nhượng quyền kinh doanh thường đòi hỏi. Hình thức cấp phép cơ hội kinh doanh vì vậy thích hợp hơn đối với ngành nghề kinh doanh có cơ sở tại nhà, bán thời gian hay để kiếm thêm nguồn thu nhập phụ.

Tuy nhiên cấp phép cơ hội kinh doanh cũng có một số mặt hạn chế nhất định.   Hạn chế lớn nhất đối với hình thức kinh doanh này là rất hiếm khi bạn nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ trong việc thiết lập doanh nghiệp, hệ thống quản lý điều hành, đào tạo, tiếp thị và trong suốt quá trình kinh doanh bạn cũng chẳng  nhận được thêm sự hỗ trợ đáng kể nào từ phía cấp phép.

Còn trong một vụ nhượng quyền thương mại thành công thì hoàn toàn trái lại, vì toàn bộ hệ thống kinh doanh được của bên được nhượng quyền đang sử dụng đều được cung cấp, tư vấn, hỗ trợ và giúp đỡ về mọi phương diện từ phía nhượng quyền để mang lại thành công và lợi ích cho cả hai phía.

Các nhà nhượng quyền (Frachisors) thường ví von đây quá trình kinh doanh cho họ, nhưng không được thực hiện bởi chính họ, mà trong đó người được nhượng quyền làm kinh doanh (Franchisees) sẽ quán xuyến mọi việc vì lợi ích tối đa của mình.

Còn trong một việc cấp phép cơ hội kinh doanh thì đó không những là công việc kinh doanh bạn đang tham gia vào mà đích thực chính bạn cũng là người phải đảm trách mọi thứ từ khâu thành lập công ty, quản lí, điều hành, tiếp thị và hạch toán... để có thể thành công.

Nếu bạn đang muốn kinh doanh nhưng vẫn muốn có được sự giúp đỡ, hỗ trợ liên tục từ hệ thống nhượng quyền thì hãy chọn ngay hình thức nhượng quyền kinh doanh này để thử sức. Còn nếu bạn nhận thấy mình là một người khéo quản lí và có thể quán xuyến mọi thứ thì sự lựa chọn thích hợp cho bạn chính là tìm một cơ hội kinh doanh đích thực.

Thứ Năm, 15 tháng 11, 2012

Bạn có thích hợp với công việc kinh doanh nhượng quyền hay không?

Mục đích của bài kiểm tra là giúp bạn có thể đánh giá chung về khả năng thích hợp với công việc kinh doanh nhượng quyền. Bạn không nên trả lời đại khái hoặc quá khắt khe với bản đánh giá này. Việc trung thực với bản thân sẽ giúp bạn biết công việc kinh doanh nhượng quyền này có phù hợp với bạn hay không.

1. Cụ thể là tại sao bạn  muốn trở thành nhà kinh doanh?

Kinh doanh để giàu có, công việc kinh doanh phù hợp với khả năng,  hay là không phải làm việc vất vả trong thời gian dài, bạn quan tâm điều gì? Kinh doanh để giúp bạn trở thành ông chủ hay định hướng số phận của bạn? Hay bởi vì bạn không thể chịu đựng được công việc hiện tại của mình?

Đây là một câu hỏi cực kì quan trọng. Có thể bạn sẽ không giàu có và có thể bạn sẽ  phải làm việc vất vả trong thời gian dài. Việc mua quyền kinh doanh sẽ không phải là sự lựa chọn đúng đắn nếu bạn kinh doanh vì không thể chấp nhận được một điều đơn giản là bạn chỉ làm việc để kiếm sống.

2. Bạn có niềm đam mê với tiền bạc không?

Bạn muốn kiếm nhiều tiền hơn không? Bạn có cảm thấy rơi vào thế cùng đường trong thời điểm hiện tại không? Động lực tiền bạc là rất quan trọng. Đặc tính này sẽ theo chiều hướng có lợi khi bạn phải làm việc lâu và vất vả trong hai năm đầu của công việc kinh doanh riêng.

3. Bạn có thích hợp với môi trường tập thể không?

Bạn có thích làm việc cho một vài người khác hay không? Bạn đã bao giờ bị lạc lõng, bạn thường hoạt động độc lập nhưng hay bị bất mãn chưa?

Nếu bạn không làm việc thoải mái với nhiều người  thì công việc kinh doanh này không hợp với bạn.

4. Bạn có thể làm việc vất vả ngay cả khi không nhận được phần thưởng không?

Trong những năm đầu, điều hành công việc kinh doanh luôn đòi hỏi những phương thức năng động, có nghĩa là bạn sẽ vất vả hàng giờ và phải xác định rõ công việc không hề dễ dàng. Khoảng hai năm đầu, thông thường là bạn không kiếm được nhiều tiền. Bạn phải kiên nhẫn chờ đợi.

5. Bạn có phải là người tự chủ trong công việc không?

Bạn có chờ những người khác để bắt đầu công việc không? Bạn có cần sự tán thành và ủng hộ của những người khác trước khi bạn bắt đầu một công việc  hay chuyển hướng công việc khác không?

Bạn phải thực sự là người tự chủ bởi vì bạn phải quản lí công việc kinh doanh hàng ngày. Tuy nhiên một trong những lợi ích đáng quan tâm nhất của công việc kinh doanh là sự ủng hộ của các nhà kinh doanh. Cụm từ "bạn kinh doanh cho bạn mà không phải bởi chính bạn" sẽ là châm ngôn cho bạn.

6. Bạn có là người mạo hiểm không?

Bạn có sẵn sàng dành hết thời gian, năng lực, tiền bạc vào việc mạo hiểm mà có thể thất bại không?

Dù bạn có đi con đường nào, bạn cũng phải suy xét kĩ. Kinh doanh luôn ẩn chứa những thất bại. Đối với nhượng quyền, rủi ro bạn có thể hạn chế chỉ còn xấp xỉ 10% nhưng luôn có sự mạo hiểm. Bạn có thể giải quyết được không?

7. Bạn có sẵn lòng trở thành ông chủ, hay người có quyền lực và có trách nhiệm trước thành công hay thất bại của một công việc mới đầy mạo hiểm hay không?

Nếu bạn thuộc tuýp người thích sự tin cậy, có quyền lực và có trách nhiệm trong sự thành công của việc mạo hiểm thì không có vấn đề gì.

8. Bạn có phải là người lạc quan hay không?

Bạn là người bi quan thì thật là đáng tiếc, và sẽ có tác hại xấu trong kinh doanh. Những ý nghĩ bi quan sẽ gây ra thất bại. Đơn giản bạn phải là người lạc quan nếu muốn thành công trong kinh doanh.

9. Bạn có đội ngũ nhân viên có khả năng không?

Bạn có khả năng liên kết mọi người một cách hiệu quả không? Bạn có thích mọi người hay không? Trong hầu hết các công việc kinh doanh, người có khả năng rất quan trọng. Nếu bạn không có đội ngũ nhân viên có tay nghề thì bạn sẽ phải đào tạo thêm cho họ.

10. Bạn có liên kết với các nhà kinh doanh hay bạn làm việc theo hướng của bạn?

Lí do đầu tiên để kinh doanh mô hình nhượng quyền thành công là do một chu trình từ người nhượng quyền kinh doanh đến người kinh doanh. Nhà nhượng quyền kinh doanh phát triển một hệ thống thành công đã được kiểm chứng, và nếu bạn là người kinh doanh thì bạn phải đi theo hệ thống này. Bạn phải làm việc theo hướng của nhà kinh doanh, không phải theo hướng của riêng bạn.

11. Bạn có thích làm người hướng dẫn không?

Bạn có thích hướng dẫn mọi người vào công việc mới không? Bản chất của công việc kinh doanh là phải đào tạo nhân viên một cách liên tục. Điều đó sẽ dễ dàng hơn nếu bạn thích công việc đó.

12. Bạn có thể điều hành nhiều công việc không?

Bạn có thể đối phó được với những đòi hỏi của công việc không? Công việc kinh doanh đòi hỏi nhiều sức lực. Bạn phải sẵn sàng làm từ việc lau nhà đến việc hoà giải với những người khó tính.

13. Bạn có sẵn sàng nhận sự giúp đỡ của những người khác không?

Đơn giản bạn phải chấp nhận sự giúp đỡ từ các nhà kinh doanh. Việc nhận được sự hỗ trợ từ họ là nhân tố giúp bạn thành công trong nhượng quyền. Và những nhân viên của bạn cũng cần phải luôn sẵn sàng giúp đỡ bạn. Nhưng bạn phải thận trọng và cân nhắc khi nhận sự giúp đỡ.

14. Bạn có quyết tâm để làm được điều bạn mong muốn và theo đuổi đến cùng không?

Để có được thành công đòi hỏi bạn phải nỗ lực bền bỉ lâu dài. Nếu bạn thấy đủ tự tin để làm kinh doanh thì hãy theo đuổi nó.

Thứ Tư, 14 tháng 11, 2012

Nhượng quyền : "Ấn tượng hoành tráng”

Có mặt tại Việt Nam muộn nên trong chiến lược của mình, Jollibee đang nỗ lực tạo ấn tượng thương hiệu cũng như tạo sự nhận diện thương hiệu thông qua hình thức nhượng quyền hàng loạt các cửa hàng.

Có mặt tại Việt Nam muộn nên trong chiến lược của mình, Jollibee đang nỗ lực tạo ấn tượng thương hiệu cũng như tạo sự nhận diện thương hiệu thông qua hình thức nhượng quyền hàng loạt các cửa hàng.

Tiêu chí của Jollibee là nhắm đến các vị trí đẹp tại các trung tâm thương mại siêu thị hoặc các khu đô thị mới và sẵn sàng đầu tư khoảng 150.000 - 200.000 USD cho mỗi cửa hàng.

Theo ông Jojo P.Subido, Tổng giám đốc Jollibee, trong chiến lược phát triển thị trường, tạo ấn tượng cho thương hiệu là điều quan tâm nhiều nhất. Vì vậy, dù giá thuê mặt bằng ở Việt Nam khá cao, chúng tôi cũng vẫn nhắm đến các vị trí trung tâm đẹp nhất để định vị thương hiệu ở một đẳng cấp cao ngay từ buổi đầu.

Thông thường, nhiều doanh nghiệp vẫn hay đi ngược, họ thường chọn vị trí ở những nơi có giá thuê rẻ, sau khi thương hiệu lớn mạnh mới tìm đến vị trí tốt hơn. Điều này là một sai lầm trong việc tạo dấu ấn thương hiệu và hình ảnh cho nhãn hàng bạn đang kinh doanh. Một kinh nghiệm khác của Jollibee là khi tạo dấu ấn cho thương hiệu, phải xem đối tượng thương hiệu của bạn là ai.

Chẳng hạn, giới trẻ Việt Nam xem các cửa hàng thức ăn nhanh không chỉ là nơi ăn uống, mà còn dùng làm nơi để trò chuyện, gặp gỡ bạn bè sau giờ tan học hoặc là một phần thưởng của cha mẹ cho thành tích học tập. Vì vậy, Jollibee đầu tư rất nhiều vào việc trưng bày, tạo màu sắc hấp dẫn, phù hợp với đối tượng khách hàng tiềm năng của thương hiệu này là giới trẻ.

Cũng theo quan niệm của những người đứng đầu Jollibee, muốn làm thương hiệu ấn tượng thì phải kết hợp với sự kiện ở từng thời điểm nhất định, và quan trọng hơn là sự kiện đó phải phù hợp với đối tượng khách hàng và lĩnh vực kinh doanh. Chẳng hạn, 3 năm liên tiếp, vào dịp Halloween, Jollibee đều tổ chức một đêm lễ hội hoành tráng dành cho các khách hàng nhỏ tuổi của mình.

Với kinh phí chỉ khoảng vài trăm triệu đồng nhưng rõ ràng, qua đêm hội, có hàng ngàn trẻ em và các bậc phụ huynh biết đến Jollibee. những chiếc túi đỏ in hình Jollibee làm quà tặng, không chỉ mang lại niềm vui cho nhiều trẻ em mà quan trọng hơn là hình ảnh chú ong Jollibee hiền lành, tốt bụng đã tạo thêm thiện cảm, gần gũi hơn với hầu hết các bạn nhỏ.

Thứ Ba, 13 tháng 11, 2012

Châu Á săn hàng

Đi đầu trong hoạt động mua bán và sát nhập trên thế giới hiện nay chính là các doanh nghiệp châu Á - Thái Bình Dương.

Đại diện Sở Giao dịch Chứng khoán Singapore - SGX (trái) và Sở Giao dịch Chứng khoán Úc - ASX trong buổi ký kết hợp đồng hợp nhất tại Sydney ngày 25/10/2010.

Trong bối cảnh các nước châu Âu tích cực cắt giảm chi tiêu công và chưa dứt lo ngại về khả năng nền kinh tế Mỹ có thể lại rơi vào tình trạng suy thoái, thế giới đang hướng sự mong đợi vào sức mạnh đang lên của các nền kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, nhằm giữ cho kinh tế toàn cầu không lâm vào cảnh khó khăn.

Không chỉ phản ánh ở tỉ lệ tăng trưởng kinh tế vững chắc, uy tín và ảnh hưởng của các nền kinh tế khu vực này (gồm cả Úc và New Zealand), còn đang vươn lên nắm vai trò đầu tàu trong hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A).

Thương vụ đáng chú ý nhất là hồi cuối tháng 10, Sở Giao dịch Chứng khoán Singapore đã chi 8,3 tỉ USD mua lại Sở Giao dịch Chứng khoán Úc để thành lập sàn chứng khoán lớn thứ 4 châu Á - Thái Bình Dương, nhằm cạnh tranh với 3 trung tâm lớn là Tokyo, Hồng Kông và Thượng Hải.

Trong quý III/2010, số thương vụ M&A ở khu vực này đạt 152,5 tỉ USD, chiếm 22% tổng số thương vụ M&A toàn cầu (theo số liệu của Thomson Reuters, công ty truyền thông có trụ sở tại Mỹ). Tỉ trọng này đã tăng từ mức chưa đến 10% hồi năm 2005.

Jennifer Coldwell , chuyên gia phân tích của Thomson Reuters, cho biết, với 333 tỉ USD giá trị giao dịch M&A từ đầu năm đến nay, những công ty mua lại của châu Á chiếm hơn 17% tổng số vụ M&A toàn cầu, tăng so với mức 16% năm 2009 và 7% năm 2000". Hoạt động M&A ở châu Á được dự báo sẽ tiếp tục nhộn nhịp, khi các công ty trong khu vực sử dụng sức mạnh của mình để tìm kiếm cơ hội ở châu Á và cả tại phương Tây.

Một cuộc khảo sát được thực hiện cho Clifford Chance, công ty luật toàn cầu trụ sở tại Anh và Tạp chí FinanceAsia của Hồng Kông, cho thấy trước mắt, các chuyên gia tư vấn về M&A sẽ tiếp tục bận rộn ở châu Á. Hơn 70% số người có quyền quyết định được khảo sát dự đoán rằng, những thương vụ M&A xuyên biên giới của các công ty châu Á - Thái Bình Dương sẽ tăng trong 12-18 tháng tới.

Trung Quốc sẽ là động lực chính của xu hướng này do đang ra sức thâu tóm các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở nước ngoài để cung cấp cho các nhà máy của mình. Cường quốc này chiếm gần 2/3 trong 10,6 tỉ USD giá trị các thỏa thuận khai khoáng ở Úc năm 2009. Trung Quốc cũng đang lùng sục dầu thô và các nguyên vật liệu khác ở châu Phi.

Một điều đáng chú ý là hoạt động M&A đã mở rộng ra nhiều ngành, đặc biệt là dịch vụ tài chính. "Chúng ta đang chứng kiến một số lượng đáng kể thương vụ M&A trong ngành dịch vụ tài chính. Đó là do các tổ chức tài chính đang trong quá trình đánh giá lại chiến lược và đôi khi là thực hiện các khoản thoái vốn mang tính chiến lược", ông Roger Denny, Giám đốc phụ trách M&A ở châu Á của Clifford Chance, cho biết. Các công ty sản xuất hàng tiêu dùng và bán lẻ cũng là mục tiêu được ưa chuộng nhờ sự gia tăng lượng người tiêu dùng châu Á.

Khảo sát trên còn cho thấy, các công ty đi săn tiềm năng ở châu Á nhận định, những khó khăn kinh tế của phương Tây đã tạo ra cơ hội để mua lại các doanh nghiệp ở châu Âu và Mỹ. Tuy nhiên, họ cũng tỏ ra thận trọng với việc mua lại công ty ở các nền kinh tế đang trì trệ.